Đông y Việt Nam thời Nguyễn
Nhưng nhìn chung cũng như các thời trước, các thầy thuốc thời Nguyễn chủ yếu được đào tạo theo truyền thống gia đình, từ cha sang con, từ thế hệ này qua thế hệ khác, mà mỗi gia đình, dòng họ lại có những bí quyết chữa bệnh riêng, không công bố ra ngoài. Việc nghiên cứu y học vì vậy chủ yếu dựa trên kinh nghiệm trị liệu của từng cá nhân, dễ bị giới hạn về kết quả nghiên cứu và hiệu quả xã hội, tuy có sự đa dạng nhưng thiên về kinh nghiệm và rõ ràng khó đóng góp cho sự phát triển của đông y nói chung. Chính vì thế mà tuy là cơ quan y tế cao nhất của triều đình, Thái y viện cũng chỉ là cơ quan chữa bệnh, đào tạo thầy thuốc phục vụ cho chính quyền mà trước hết là nhà vua, hoàng tộc, quan lại chứ không phải là nơi nghiên cứu y học, không thể trở thành hạt nhân khoa học cần có của một nền y tế toàn dân.
Ở các địa phương cấp trấn tỉnh đạo, triều Nguyễn đặt ra Lương y ty và Dưỡng tế sự để chăm sóc sức khỏe quan lại, quân đội cũng như dân cư sở tại nhưng lực lượng rất mỏng, thông thường nhân sự của Lương y ty ở mỗi tỉnh chỉ gồm 1 Chánh cửu phẩm Y sinh và 10 Y thuộc, song có nơi số Y thuộc chỉ có 5 người (4). Trình độ của các nhân viên trong Lương y ty cũng không cao, như trấn Sơn Tây vào năm 1829 mới thiết lập được Lương y ty với thành phần “Thị lại Ty Chiêm hậu là Đỗ Công Hiệu ở trấn ấy làm Thí sai Y sinh” còn các viên y thuộc thì được chiêu mộ từ nhưng dân ngoại tịch “hơi biết làm nghề thuốc” (5). Rõ ràng về cơ cấu cũng như trình độ chuyên môn, mạng lưới y tế ở địa phương của triều Nguyễn đều bộc lộ nhiều thiếu sót. Cho nên khi địa phương có dịch bệnh thì hầu như Viện Thái y đều phải điều động người về để cùng nhân viên y tế địa phương đối phó. Nhìn chung do không có chính sách phát triển y tế thống nhất trên toàn quốc nói riêng nên hoạt động của hệ thống y tế quan phương đều không thực sự hiệu quả.
Do sự hạn chế của bối cảnh y tế chung, dưới thời Nguyễn hệ thống y tế phi quan phương cũng chỉ phát triển một cách tự phát và với nhiều khó khăn, nhưng nó cũng góp phần giải quyết một phần nhu cầu y tế của xã hội, bước đầu trở thành một bộ phận của hệ thống dịch vụ ở các đô thị đồng thời là nguồn chủ yếu trong việc cung cấp cán bộ y tế cho chính quyền. Chính nhờ vậy mà Đông y khá gắn bó với đời sống xã hội và những người làm nghề thầy thuốc luôn được nhân dân kính trọng. Sự phát triển của Đông y thời Nguyễn thể hiện rõ ở số lượng người hành nghề trong hệ thống phi quan phương. Ngay cả ở nơi bị người Pháp xâm chiếm trước nhất, có nền Hán học bị suy tàn sớm nhất là Nam Kỳ đến đầu thế kỷ XX vẫn còn có người hành nghề Đông y, không chỉ ở Sài Gòn - Chợ Lớn mà còn ở nhiều tỉnh khác. Như anh em Nguyễn Văn Phát, Nguyễn Văn Phấn người Tân An, làm thầy thuốc ở Sóc Trăng và Chợ Lớn; Nguyễn Quang Thanh người Vĩnh Long “gồm biết đạo Nho đạo Y”, lập Thọ Tế đường “làm thầy thuốc cứu giúp thiên hạ”; Nguyễn Ngọc Thơ người Sóc Trăng “noi theo nghiệp thầy thuốc của ông thân, ra làm thầy thuốc hốt thuốc”; Kha Văn Lân người Minh Hương, xuất thân trong một gia thế về nghề y, đã giỏi Đông y lại kết hợp với Tây y, nên “cứu giúp bịnh hoạn thiên hạ lành mạnh đặng nhiều người”; Nguyễn Minh Diệm người Gia Định “gồm biết đạo Nho, Y”; Đào Duy Chung người Tân An, học chữ Nho nhưng cũng chuyên về nghề y dược; Lê Thanh Huệ, người gốc Quảng Ngãi, nhà sư, “biết chữ Nho nhiều, gồm thông đạo y dược” (6)… Bước qua thế kỷ XX, khi người Pháp đã thiết lập nền y tế thuộc địa trên toàn lãnh thổ Việt Nam thì trong dân gian, việc chữa bệnh bằng đông y vẫn rất phổ biến, vì thuốc tây “chỉ tiện lợi cho những dân ở các tỉnh lỵ, mà những dân ở các tỉnh lỵ đó lại là phần rất ít, đối với toàn thể quốc dân. Vả lại những thứ thuốc tây thường dùng, dân nhà quê ta chưa mấy người đã quen dùng đến, mà dễ thường ở tỉnh thành còn nhiều người chưa biết dùng”. Hơn nữa đi khám bệnh “ông lang ta” rồi cắt thuốc mang về uống, chi phí ấy rẻ hơn nhiều so với riêng việc khám bệnh “ông lang Tây” (7). Có thể nói trong nhân gian hạn hẹp của y tế Việt Namtrước kia, hệ thống phi quan phương này cũng góp phần quan trọng trong những thành tựu y học của Đông y Việt Nam thời Nguyễn.
Trên phương diện y học, tuy không có danh y lỗi lạc như Tuệ Tĩnh thời Trần hay Hải Thượng Lãn Ông thời Lê, nhưng thời Nguyễn đã xuất hiện nhiều thế gia Đông y như dòng họ Nguyễn Quang Lượng ở Hà Tây, dòng họ Nguyễn Địch ở Từ Liêm (Hà Nội), dòng họ Bùi Thúc Trinh ở Hải Hậu (Nam Định)… và dòng họ nào cũng có người trước tác sách vở y học. Điều này thể hiện qua sự xuất hiện hàng loạt sách Đông y của người Việt Nam trong cả nước, như Hoàng Quân với Lạc sinh tâm đắc (1802), Lê Như Trác Cứu pháp tinh trích yếu tiện lãm (1805), Viên ngoại lang họ Ngô ở Tả Thanh Oai với Hoạt nhân bị yếu (1809), Lê Đức Ân với Tổng toản y tập (1854), Trần Đức Hinh với Đậu khoa (1869), Nguyễn Quang Lượng với Nam dược tập nghiệm quốc âm diễn ca, Đông Khê Nguyễn Hy Viên với Sử đồng tê thọ đậu hậu toàn thư (1880), Nguyễn Đình Chiểu với Ngư tiểu y thuật vấn đáp (sau 1874), Nguyễn Địch với Bản thảo yếu lục, Vân Khê y lý yếu lục (1885), dòng họ Đặng (Đặng Văn Đĩnh, Đặng Văn Suyền…) với Tiên Phù Đặng gia y trị toát yếu, Lê Đức Huệ với Nam thiên đức bảo toàn thư, Bùi Thúc Trinh với Y học thuyết nghi (1885), Vệ sinh yếu chỉ (1890), Đông Nham Hoàng Chí với Tự Luân đường dược tài bị khảo (1899)…
Tác giả của những sách này người ở Sơn Tây, người ở Hà Nội, người ở Bắc Ninh, có người ở Nam Định, Quảng Yên, có người ở Gia Định, có người trong hệ thống y tế phi quan phương như Nguyễn Đình Chiểu, Bùi Thúc Trinh, có người là y quan của triều đình như Nguyễn Địch làm quan ở Thái y viện, Đặng Văn Đĩnh làm Huân khoa ở Bắc Ninh, Trần Đức Hinh là Y thuộc trong Lương y ty tỉnh Quảng Yên… Trên cơ sở thực tiễn xã hội của mình, họ đã ý thức được nhu cầu phổ biến kiến thức y học, chính vì thế mà dưới thời Nguyễn xuất hiện nhiều sách y lý Đông y như Tổng toản y tập, Vân Khê y lý yếu lục, Y học thuyết nghi, Ngư tiểu y thuật vấn đáp…). Bên cạnh đó cũng xuất hiện một số sách về bệnh đậu mùa (Đậu khoa, Sử đông tê thọ đậu hậu toàn thư…) vì thời Nguyễn cũng là thời kỳ bệnh đậu mùa hoành hành khá phổ biến ở Việt Nam … Mặt khác, hoàn cảnh đất nước nữa đầu thế kỷ XIX cũng tạo nhiều điều kiện cho giới Đông y Việt Nam thời Nguyễn sưu tầm, tham khảo các trước tác y học trước đó cũng như nhiều sách vở y học Trung Quốc, đây là nguồn tư liệu tham khảo quan trọng cho các thầy thuốc Việt Nam trong việc biên soạn sách Đông y.
Đặc biệt, cần nhấn mạnh trường hợp Nguyễn Đình Chiểu với Ngư Tiểu y thuật vấn đáp, tác phẩm có thể coi là một trong những đỉnh cao của quá trình dân tộc hóa Đông y Trung Hoa của Việt Nam. Về nội dung y học, Ngư Tiểu y thuật vấn đáp đã Việt hóa kinh điển y văn một cách có hệ thống (đặc biệt là Nội kinh, Y học nhập môn) bằng hình thức diễn ca với hơn 3500 câu thơ, chủ yếu là thơ lục bát. Ngư thuật y tiểu vấn đáp hoàn thành khoảng những năm 70, 80 của thế kỷ XIX, khi nền kinh tế thuộc địa của người Pháp đã xuất hiện ở Nam kỳ và trở thành một thách thức đối với nền y học truyền thống. Với thể thơ lục bát quen thuộc dễ nhớ dễ thuộc đối với người Việt Nam, Ngư Tiểu y thuật vấn đáp đã thật sự là “giáo trình” phổ cập lý thuyết Đông y bằng tiếng việt đầu tiên cho tầng lớp nho sỹ bình dân trong bối cảnh thuộc địa, đồng thời là tác phẩm đánh dấu một bước đột phá của Đông y Việt Nam trên đường hướng dân tộc hóa bằng cách phổ biến kiến thức Đông y bằng chữ Nôm - tiếng Việt. Cần lưu ý rằng những hiện tượng như Ngư Tiểu y thuật vấn đáp chỉ xuất hiện ở Nam kỳ chứ không có ở vùng Trung Bắc. Bởi Nam kỳ là nơi hệ thống y tế thuộc địa lấn át Đông y sớm nhất, và phản ứng mạnh mẽ của giới Đông y đã dẫn tới sự xuất hiện Ngư Tiểu y thuật vấn đáp trên phương diện học thuật, tác phẩm “diễn ca” kinh điển Đông y đồ sộ nhất trong lịch sử Việt Nam. Chính sách văn hóa của người Pháp đã thủ tiêu nền giáo dục khoa cử chữ Hán ở Nam kỳ, và khi số người biết chứ Hán ít đi, thì nền y học Đông y phải được nhân dân hóa. Trong khi đó ở vùng Trung Bắc nền khoa cử chữ Hán vẫn còn kéo dài đến thế kỷ XX, vậy nên giới Đông y chưa thấy có nhu cầu cấp thiết như giới Đông y ở Nam kỳ thuộc địa. Có thể thấy Đông y Việt Nam thời Nguyễn tuy có nhiều hạn chế nhưng vẫn phát triển theo một đường hướng “xã hội hóa” tích cực, mà Ngư Tiểu y thuật vấn đáp là một ví dụ điển hình.
Nhìn chung trên cơ sở cấu trúc xã hội, nền tảng kinh tế và trình độ kỹ thuật thời phong kiến, Đông y không thể phát triển thành một hệ thống y tế xã hội đáp ứng được nhu cầu phòng bệnh và chữa bệnh cho toàn dân. Tình hình nói trên khiến Đông y thời phong kiến nói chung cũng như Đông y ở Việt Nam thời Nguyễn nói riêng luôn luôn bị đặt vào tình trạng phát triển không đồng bộ của hai phương diện y tế và y học, nghĩa là có thể đạt tới những thành tựu y học rất cao nhưng vẫn không đem lại các hiệu quả y tế của Đông y Việt Nam thời Nguyễn vì thế là điều tất yếu, tuy nhiên vẫn có thể nói nó đã đạt tới những thành tựu cao nhật của y học truyền thống trên trước khi nền y tế Việt Nam bước vào quỹ đạo hiện đại, những thành tựu này đã góp phần quan trọng cho sự phát triển của Đông y trong bối cảnh y tế thuộc địa đến 1945.
Cần nói thêm rằng chính xuất phát từ những hạn chế và thành tựu nói trên nên trong quá trình nền y tế Việt Nam trong thời phong kiến chuyển qua nền y tế thuộc địa, Đông y Việt Nam sau thời Nguyễn đã được hiện đại hóa một cách bị động và với nhiều thiếu sót, nhưng đó là đề tài của nhiều công trình nghiên cứu khác. Điều cần nhấn mạnh là chính vì vậy mà Đông y Việt Nam thời Nguyễn cần được quan tâm một cách toàn diện và tìm hiểu một cách thấu đáo hơn nữa, vì việc từ bỏ chữ viết Hán Nôm để dùng chữ Quốc ngữ latinh từ cuối thế kỷ XIX đã có một tác động hai mặt đối với sự phát triển của văn hóa truyền thống trong đó có Đông y ở Việt Nam.
(1)Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Viện Sử học, Nxb. Thuận Hóa, Huế 1993, T. II, Q. 10, Bộ Lại IV, Quan chế III, Thái y viện, tr. 105, 106.
(2)“Mới đặt nhà dạy học thuốc của viện Thái y và định điều lệ về khoa học.
Một khoản: Trường học đặt ở ngoài Hoàng thành đặt hai viên tư giáo, giảng dạy về các sách nội khoa và ngoại khóa cứ 4 tháng quý thì khảo hạch. Nội khoa thì hỏi về Nội kinh, một điều phép bắt mạch. Chữa bệnh 3 điều. Ngoại khoa thì hỏi 3 điều về phép chữa bệnh. Ai bỏ thiếu thì phạt.
Một khoản: Chọn cứ thuộc viên thì xét những nhân viên đã làm việc đủ 4 năm khảo xét công trạng được dự có ưu bình, cùng là bắt mạch chữa bệnh, điều hộ thường thấy hiệu nghiệm, thì tâu cho xin bổ.
Một khoản: Cứ 2 năm phái 3 hội đồng khảo hóa 1 lần. Nội khoa hỏi 1 điều về Nội kinh, 1 điều về phép bắt mạch, 4 điều về phép chữa bệnh. Ngoại khoa thì hỏi 6 điều phép chữa thuốc. Ai thông được 5 – 6 điều là hạng ưu, 3 - 4 điều là hạng bình, 1 – 2 điều là thứ, không thông điều nào là liệt. Hạng ưu thưởng 4 tháng lương, hạng bình thưởng 2 tháng lương. Khảo khóa 2 thứ, đủ 4 năm chiếu lệ cho thăng hoặc giáng”.
Nguyệt Cầm (dịch)
(Đại Nam thực lục, Quốc sử quán triều Nguyễn, Nxb Giáo dục, Hà Nội 2007, tập VII, tr. 481)
(3)La Khê Nguyễn thị gia phả, bản chữ Hán, ký hiệu A, 1039, (Viện Nghiên cứu Hán Nôm).
(4)Như ở các tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa, Biên Hòa, Định Tường, Hà Tiên, Hà Tĩnh, xin xem Khâm định Đại Nam hội điểm sử lệ, Viện Sử học, Nxb Thuận Hóa, Huế 1993, T.II, Q.10, Lại bộ IV, Quan chế III, Lương y, tr.173-177.
(5)Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, sdd., T.XV, Q.258, Viện thái y, tr.424.
(6)Theo Nguyễn Liên Phong, Hạ kim thi tập, Imprimerie de IUnion, Sài Gòn 1915.
(7)Nguyễn Khắc Hạnh, Khảo cứu về thuốc Nam, Tạp chí Nam phong, số 30, 1919.