Đốc Tích và nỗi ám ảnh của thực dân Pháp
Ông thuộc dòng dõi nhà Mạc, sau đổi sang họ Nguyễn được vua Hàm Nghi phong chức Đề đốc quân vụ Hải Dương. Là một trong những thủ lĩnh của phong trào Bãi Sậy những năm cuối thế kỉ XIX, nhiều phen làm cho bọn thực dân và tay sai điên đảo khi đàn áp nghĩa quân do ông lãnh đạo trên địa bàn hai sông (gồm một số huyện thuộc các tỉnh Hải Dương, Quảng Yên, Kiến An).
Phóng viên tờ L’Avenir du Tonkintường thuật câu chuyện về hai người lính Pháp De Clausade và Martin đào ngũ sang hàng nghĩa quân Đốc Tích (đăng 4-1900) có đoạn: … “Lần đầu tiên gặp Đốc Tích tại Trúc Đằng, tên thật là Nguyễn Văn Hiệu, một trí thức khoảng 30 tuổi rất thông minh, là một trong những đối thủ nguy hiểm nhất của chúng ta.
Một toán người vũ trang bằng súng trường dẫn họ vào sân bắt quì xuống, cởi trói, chỉ để lại một đoạn dây buộc cổ tay hai người lại với nhau.
Khi biết lý do đào ngũ, Đốc Tích hỏi hai người có biết sửa chữa vũ khí và chế đạn không? Có muốn cùng với quân của ông ta chống lại người Pháp không? Ngay khi mới tiếp xúc, Đốc Tích phát hiện De Clausade là một người thông minh bèn gọi riêng hỏi về tình hình đạo binh Pháp đang đóng trong vùng. De Clausade chỉ có thể cung cấp chính xác về tình hình binh lính đóng ở Đáp Cầu và ở Bắc Ninh, còn ở các đồn khác thì không nắm rõ quân số, nhưng De Clausade phỏng đoán có tất cả 2.000 cây súng trường (loại súng kiểu 1878) trong đạo quân ở Bắc kỳ. Cuộc trao đổi trên đây diễn ra với sự có mặt của những lính tập đã trốn sang hàng ngũ quân nổi loạn và số lính này sau rất đông, giữa lúc đó một tướng của Đốc Tích ở mặt trận trở về, mang theo một thuyền chở hàng hoá của Pháp: rượu vang, bia, đồ hộp các loại. Mọi thứ được đem chia cho mọi người, kể cả hai người Pháp đã đào ngũ. Cũng từ đây, De Clausade và Martin được sự chỉ huy trực tiếp của viên tướng này. Hai người được tham gia các trận đánh ví như trận đánh ở Trúc Đằng ngày 14-4…
De Clausade cho biết: suốt thời gian đi theo quân nổi loạn cho đến ngày trao trả, tôi liên tục đi theo các trận đánh, di chuyển hết nơi này đến nơi khác, không hề biết tên làng xóm đã đi qua. Khoảng đầu tháng 7-1889, tôi được gặp lại Đốc Tích kể từ hôm đầu tiên tại một làng, theo cách phát âm tôi nghe được thì có thể đó là làng Phat Co.
Tán Thuật cũng ở đây. Khi diễn ra một trận đánh ông ta tránh vào một hang đá với mấy người đầy tớ. Quân số của Đốc Tích và Đốc Lan có khoảng 800 người, có 500 người vũ trang bằng súng trường, trong đó có khoảng 350-400 súng tốt. Số quân còn lại vũ trang gươm giáo làm nhiệm vụ cu li và thảm sát. Đốc Tích tìm nguồn vũ khí ở Hải Phòng. Ông ta có ba thám tử đi lại như con thoi giữa Hải Phòng và bản doanh của ông, một hôm tôi thấy người ta mang đến cho Đốc Tích 2 khẩu súng kiểu Anh với 5.000 – 6.000 viên đạn được chuyển đến nhiều đợt. Đạn chế tạo tại Trung Hoa, không đóng thành két mà buộc trong những tấm chiếu.
Khi hành quân, Đốc Tích hỏi tôi có cần một khẩu súng trường không? Tôi phải nhận lời…”.
Sau nhiều năm hoạt động chống Pháp ở hai sông, đến năm 1889 do phong trào kháng chiến vùng Đông Bắc Bắc kỳ bị lắng xuống, trước sự đàn áp khủng bố của thực dân, Đốc Tích buộc phải ra hàng để bảo toàn lực lượng nghĩa quân.
Thực dân Pháp rút kinh nghiệm vụ Đội Văn trá hàng (3-1889) nên quyết định đày Đốc Tích đi biệt xứ. Báo cáo của Thống sứ Bắc Kỳ ngày 1-1-1890 viết:
“Trường hợp Đội Văn sau khi ra hàng lại quay giáo tiếp tục chống lại chúng ta đặt cho chính quyền nhiệm vụ khẩn thiết là phải có biện pháp mạnh đối với Đốc Tích nhằm đề phòng một sự phản trắc mới. Tuy Đốc Tích xin được trở về cuộc sống đời thường, nhưng y không phải là loại chủ tướng tầm thường như Đội Văn. Đốc Tích là một viên quan nổi loạn chứ không phải là một tướng giặc. Y xuất thân trong một gia đình danh vọng và giàu có, vai trò của y trong cuộc chiến đấu chống lại chúng ta trước hết là vai trò chính trị và tiếng tăm của y trong vùng này có ảnh hưởng rất lớn với dân chúng. Hiện nay vùng châu thổ Bắc kỳ còn rất rối động. Nhiều lực lượng nổi loạn còn tồn tại khắp nơi buộc chúng ta tuyệt đối cần thiết phải cách ly Đốc Tích ra khỏi môi trường này, chúng ta đã hứa bảo toàn tính mạng cho Đốc Tích nếu đày y sang Cayenne thì chẳng khác nào ghép y vào tội chết và sẽ có hậu quả rất xấu đối với công luận. Có lẽ cách khôn ngoan hơn là nên đày Đốc Tích sang Angiêri”.
Ngày 25-2-1890, Đốc Tích đến Angiêri, nhưng thực dân Pháp lo ngại ông sẽ có điều kiện tiếp xúc với vua Hàm Nghi vừa bị lưu đày tại đây, nên đã đưa ông đến Biskra. Việc lưu đày Đốc Tích sang Angiêri được tiến hành bí mật, không qua xét xử.
Theo Bản ghi nhớ về Đốc Tíchviết khoảng cuối 1913 đầu 1914 của Miéville (con rể ông): Đốc Tích ở Hà Nội 5 tháng sau đó người ta bắt ông giải vào Nam Kỳ. Vợ ông được tin, xin được đi theo chồng, cùng đi có đứa con lên 5 tuổi tên là An. Thời gian ở Angiêri, bà vợ sinh thêm một con gái. Ba năm sau (1893) bà cùng cô con gái này từ Angiêri về nước, bà vợ ông Đề Đốc Tích chẳng còn nguồn sống nào nữa. Mọi tài sản đã bị chiếm đoạt, bà phải nuôi người con gái thứ hai sinh ở Constantine .
Những năm lưu đày, nhiều lần ông viết thư cho chính quyền thực dân Pháp xin trở về nước (6-1890), người con gái lớn lại làm đơn gửi Bộ trưởng thuộc địa xin ân xá cho cha miình. Nhưng Toàn quyền Đông Dương yêu cầu cứ để Đốc Tích ở Angiêr:
“Có lẽ chưa nên cho phép tên tướng nổi loạn này được trở về Bắc kỳ. Y đã từng là linh hồn cuộc nổi dậy chống chúng ta và là một trong những đối thủ nguy hiểm nhất, những ký ức về Đốc Tích vẫn còn sống động khắp vùng Hải Dương, Quảng Yên. Tuy vùng này đã được bình định, nhưng các mưu toan liều lĩnh của Kỳ Đồng vừa qua không cho phép chính phủ bảo hộ khinh xuất. Tốt nhất là cứ giữ Đốc Tích ở lại Angiêri, nếu không phải vô thời hạn thì ít nhất cũng đến khi Đốc Tích đã già khọm”.
Năm 1907 Đốc Tích lại viết một bức thư tiếng Pháp gửi trực tiếp cho Tổng thống Pháp:
“Đề Đốc Tích, quan An Nam, tù binh chiến tranh 17 năm qua, kính gửi ngài Tổng thống Pháp.
Cảnh giam cầm tôi chịu đựng suốt 17 năm qua, xa gia đình quê hương thật khốn khổ. Tôi xin ngài Tổng Thống nước cộng hoà Pháp cho tôi được trở về nhìn lại quê hương, thân thuộc sau những năm dài xa vắng. Nếu việc tôi trở về còn phải hoãn lại một thời gian, thì nhân đây tôi xin ngài can thiệp cho tôi xin tăng tiền sinh hoạt thêm 1.599 Francs mỗi năm để tôi đỡ khốn khổ vì sống cô đơn xa quê hương, chẳng có bạn bè, chẳng ai biết nói tiếng mẹ đẻ của tôi”.
Báo Le Matinnăm 1907 có bài Một kẻ lưu đàyviết: “Tôi đã tìm cách tiếp xúc với ông “Đề Đốc”. Ông đã ngoài 50 tuổi, tóc đang bạc dần. Ông vẫn dùng y phục An Nam , làm cho người ta tò mò nhìn ông, nhất là dân địa phương. Tại đây, Đốc Tích rất được nể trọng. Những vụ quậy phá của bọn côn đồ mà ông từng là nạn nhân đã hoàn toàn biến mất. Ông học nói tiếng Pháp khá thành thạo, thậm chí rất tinh tế, ông viết văn Pháp khá tốt và đang biên soạn một cuốn từ điển Pháp – An Nam. Vừa mới đây, ông lại xin “ân xá” một lần nữa, vì theo ông, chẳng có lý do gì giữ mãi ông ở Angiêri một cách độc đoán như vậy”.
Nhưng cũng như lần trước, các cấp chính quyền thực dân ở Đông Dương vẫn lo sợ Đốc Tích trở về. Ta xem thư của Công sứ Hải Dương gửi cho Thống sứ Bắc Kỳ 11-2-1908 sẽ rõ: “Việc Đốc Tích đột ngột trở về quê quán của y lúc này, theo tôi là không đúng lúc và thất sách, dân An Nam vùng này vẫn chưa quên Đốc Tích, vẫn còn rất nhiều đồng đảng cũ trung thành với y. Chúng ta không khỏi lo ngại lũ trở về để mưu toan kích động nổi loạn”.
Ngày 4-10-1912, Đốc Tích chết ở Constantine , có tài liệu nói là do bệnh xơ gan, có tài liệu nói ông tới đập cửa nhà viên đại tá phụ trách chính quyền ở địa phương đòi phải cho ông về nước và ông đã bị bắn chết.
Theo GS. Ch.Fourniau: thi hài ông tạm chôn ở Constantine , sau đó được chuyển về Bắc kỳ khi bắt đầu Thế chiến thứ hai.








