Đọc lại tạp chí Nam Phong và Phạm Quỳnh
Khi đất nước mất về tay thực dân Pháp, việc giành lại chủ quyền lãnh thổ tạm thời bị thất bại, thì việc đặt ra hồn nước được giới sĩ phu đặc biệt quan tâm. Các nhà nho thập niên đầu thế kỷ XX đều có những bài thơ thức tỉnh hồn nước, tiêu biểu là Chiêu hồn nước của Phạm Tất Đắc. Tuy nhiên, chữ hồn của các nhà nho này chỉ cái gì đó vô hình, thiêng liêng, có khả năng tồn tại lâu dài đối lập với thể xác. Bởi vậy, khái niệm hồn nước vẫn chưa được giải thích rõ như là bản sắc văn hóa dân tộc.
Phạm Quỳnh, với tư cách là một người làm học thuật, trên Nam Phong (số 164, 7 - 1931), đã viết bài Bàn về tinh thần lập quốc đề cập đến vấn đề này. Ông dẫn ý của văn hào Pháp Ernest Renan trả lời câu hỏi "Thế nào là một nước?" mà cho rằng: "Cái nguyên tố dựng nên một nước không chỉ ở thổ địa, cư dân mà thôi, cốt là ở cái ý nguyện chung của người ta muốn cùng nhau sum vầy sinh hoạt, cùng nhau cộng thích đồng hưu, nhìn về trước thì cùng nhau chung một cuộc lịch sử để tạo gian nan, ngó về sau thì cùng nhau chung một lòng hy vọng vẻ vang rực rỡ, nói tóm lại là ở cái mối vô hình nó ràng buộc người ta lại, làm thành cái đoàn thể thiên nhiên mà bền chặt, trăm nghìn vạn mớ người ta cùng nhau như một người, lâm thời có thể răm rắp đứng lên mà đối với mọi sự ngoại hoạn. Cái vô hình, tức là cái tinh thần lập quốc, tức gọi là quốc hồn".
Thức nhận được thảm họa của cách học cũ (dù có thể mang lốt mới), Phạm Quỳnh đã đặt một cơ sở khoa học cho cách học mới để từ đó dựng xây một nền quốc học chân chính, một nền văn hóa mới. Đó là sự tổng hợp văn hóa Đông Tây. |
Vấn đề này đã làm nổ một cuộc tranh luận. Có người cho là có, như Sở Cuồng Lê Dư chẳng hạn. Thậm chí ông này còn lập ra tủ sách "Quốc học tùng thư". Nhưng cũng có người cho là không, như Phan Khôi.Thực ra, chuyện có không không có cũng khó phân định, vì mỗi người hiểu quốc học một cách khác nhau. Bởi thế, khi vào cuộc, Phạm Quỳnh đã phải đưa ra định nghĩa về quốc học. Theo ông, nó "gồm nhữngphong trào học thuật trong một nước, có đặc sắc với nước khác, và có kết tinh thành những sự nghiệp trước tác, lưu truyền trong nước ấy và ảnh hưởng đến các học giả trong nước ấy". Sau đó, tuy khôngtrả lời trực tiếp, nhưng ông lại đưa ra một nhận xét khá xác đáng và không kém phần hóm hỉnh: "Sở dĩ phải khơi ra câu hỏi đó, đủ biết rằng nếu nước ta đã từng có một nền quốc học, thì cái quốc học ấycũng nhỏ nhen, eo hẹp, không có gì đủ đem khoe với thiên hạ".
Đi tìm nguyên nhân của tình trạng trên, Phạm Quỳnh cho rằng ấy là do "cái học của ta", cụ thể hơn cách học. Một nước nhỏ lại đứng cạnh một nền văn minh lớn thì dù muốn dù không việc học là tất yếu.Nhưng hơn hai mươi thế kỷ học Tàu mà nền quốc học của ta chưa có "môn hộ" (tức trường phái học thuật) riêng, học vấn thì chưa thoát "vòng giáo khoa" (tức tri thức học đường, kiến thức phổ thông) đểlên "cõi học thuật", con người thì chưa thoát nổi "tư cách học trò", "tâm lý học trò". Kìa như Nhật Bản, ông so sánh, người ta cũng học Tàu nhưng lại có tư tưởng học thuật riêng, bởi thế có quốc học.Có nhiều nguyên nhân, ông giải thích, nhưng có lẽ chủ yếu là do người Nhật không học theo chế độ khoa cử Tàu, còn ta "học Tàu lại chỉ thuần một phương diện cử nghiệp, là cái học rất thô thiển, khôngcó giá trị gì về nghĩa lý tinh thần cả, mài miệt về một đường đó trong mấy mươi đời, thành ra cái óc bị tê liệt đi mà không sản xuất ra được tư tưởng gì mới lạ nữa".
Dĩ nhiên, nỗi đau này không phải lỗi của riêng ai. Phạm Quỳnh đã phân tích các tình thế địa lý, lịch sử và chính trị giữa ta (khác với Nhật) và Tàu đã dẫn đến cách học ấy. Điều này, một mặt mở ra mộtkhả năng có thể thay đổi cách học một khi tình thế đổi thay, mặt khác cho thấy một di căn của nó đến cả thời đại Tây học. Nội dung học thì mới, nhưng cách học vẫn cũ như cũ. Bởi vậy, nói như Phan ChuTrinh xưa, hủ Nho thì nay hủ Tây. Mà với tư cách học trò, nhất là trò hủ, thì vẫn thường xảy ra "cái tệ con chiên theo đạo người thường hay ngoan đạo hơn chính người nước phát hành ra đạo ấy". Hơnnữa, mọi học thật (thuật) một khi đã mang tính cách tôn giáo (dù dưới hình thức nào) thì cũng dễ thành học giả.
Thức nhận được thảm họa của cách học cũ (dù có thể mang lốt mới), Phạm Quỳnh đã đặt một cơ sở khoa học cho cách học mới để từ đó dựng xây một nền quốc học chân chính, một nền văn hóa mới. Đó là sựtổng hợp văn hóa Đông Tây. Thực ra, định đề này không mới, nhưng cách đặt và phân tích vấn đề thì khá thuyết phục, nhất là với tư duy bấy giờ. Thoạt tiên, Phạm Quỳnh phân biệt văn hóa Đông Tây ở haiđặc trưng lớn của nó là đạo học và khoa học. "Khoa học ở đây là nói về cái phương pháp, cái tinh thần của sự học của người Thái Tây, khởi xướng ra khoa học là lối học phân ra khoa loại, đặt thànhphương pháp, để cầu lấy kết quả đích xác, tìm lấy chân lý sự vật. Khoa học là phép học chỉ châu tuần trong cõi thực tế, không mơ tưởng những sự huyền vi. Khoa học là sự học lấy lý luận làm tiênphong, lấy thực nghiệm làm hậu kính, lấy sự thật hiển nhiên làm căn cứ, lấy lẽ phải tất nhiên làm mục đích". Lối học khoa học này thật mới mẻ và cũng thật khác xa với đạo học. Một đằng thì học chođời (ứng dụng), khách quan, một đằng thì học cho mình (thụ dụng), chủ quan; một đằng thì chuộng mới, một đằng thì nệ cũ; một đằng thì càng học càng giàu có, một đằng càng học thì càng quy giản, rútlại chỉ còn mấy điều cốt yếu đủ để tự mình giác ngộ mình...









