“Điện thế” hay “điện áp” gọi như thế nào cho đúng?
Hai thuật ngữ “thế” và “áp” này về lĩnh vực điện hình như vẫn còn được cho là không có gì đáng phải quan tâm, nên thường xuyên sử dụng rất tuỳ tiện trong khi nói cũng như viết thành văn bản hoặc được in trong một số sách, tài liệu lưu truyền lại mai sau.
Thực ra hai thuật ngữ “thế” và “áp” về điện đóng vai trò rất quan trọng trong nhận thức và mang một ý nghĩa lớn ngay từ khi chúng bắt đầu xuất hiện. Thật vậy, điện thế và điện áp đều thể hiện công năng ẩn tàng hay biểu hiện bản chất của một trường điện. Không những chúng có đơn vị rất cơ bản trong hệ đơn vị điện mà đơn vị của chúng còn cơ bản hơn cả đơn vị của cường độ điện trường E, do đơn vị của đại lượng E này đặc trưng cho một trường điện còn phải dùng đơn vị của chúng làm dẫn suất, tức là tính năng bằng V/M (Volt/ Meter) trong hệ SI…
Tuy vậy, đã từ lâu việc sử dụng hai thuật ngữ “thế” và “áp” rất ít chuẩn xác thậm chí cả trong nghề và ngành điện.
Thực trạng của việc sử dụng thuật ngữ “thế” và “áp” về điện có thể phân loại: Một số người dùng thuật ngữ này rất chuẩn xác trong lời nói và trong văn bản với ý thức trách nhiệm cao; Một số người hiểu rõ ý nghĩa của thuật ngữ nhưng khi dùng lại theo thói quen từ khi còn học ở trường hoặc tiếp thu qua một số sách báo, qua giao tiếp; Một số hiểu rõ ý nghĩa thuật ngữ nhưng không để ý khi dùng hoặc có thể họ cho thuật ngữ là điều vụn vặt, không quan trọng; Một số người chưa hiểu hết ý nghĩa của thuật ngữ nên họ không thể phân biệt khi dùng.
Việc chuẩn xác về thuật ngữ “thế” và “áp” đáng lẽ cần được phổ cập cách dùng từ trước thời kỳ đất nước đi vào hội nhập, đến nay tuy đã là muộn nhưng chúng ta chậm chỉnh sửa ngày nào thì sự lộn xộn sử dụng các thuật ngữ này cùng với tác hại của nó càng nhiều và khó khắc phục.
Trước ngày miền Bắc hoàn toàn giải phóng, từ “thế” và “áp” trong các thuật ngữ về điện chưa bao giờ xuất hiện. Thời đó trong các sở điện, các nhà máy điện của Pháp xây dựng và các trường học, duy nhất chỉ sử dụng từ “thế” và “áp” trong lĩnh vực điện: Điện thế, hiệu số điện thế, máy biến thế. Các sách giáo khoa có môn điện giảng dạy trong nhà trường thường dựa vào sách của Pháp như quyển “Physique” của tác giả Geogres Ève. Trong nghề điện chủ yếu dựa vào các cuốn sách như: Kỹ thuật điện thực hành (Electrotechnique appliquée) có tên là: Installations Electriques là haute et bass tension (trước kia dịch là Trang bị điện cao và hạ thế) của tác giả A. Mauduit thuộc nhà xuất bản Dunod - Paris. La Practicque Industrielle des Transformateurs (trước kia dịch là Thực hành công nghiệp các máy biến thế) của tác giả Maurice Denis Papin thuộc nhà xuất bản Albin Michel) hoặc cuốn La construction des Bobinages dịch là cấu tạo các cuộn dây máy điện của tác giả thuộc nhà xuất bản Dunod, Một trong những cuốn sách phổ cập đại chúng hay dùng về điện trong nhà là cuốn Guide de Lélectricien amateur dịch là sách chỉ dẫn của thợ điện không chuyên của tác giả J. Peube thuộc nhà xuất bản Girardot – Paris. Đặc biệt thời đó có cuốn sách đầu tiên về thuật ngữ khoa học kỹ thuật của tác giả Hoàng Xuân Hãn có tên là “Danh từ khoa học”. Trừ một số thuật ngữ trong thực hành, người quen gọi theo hình dạng vật liệu và công dụng như: Cầu dao, sứ cách điện hoặc phiên âm từ tiếng Pháp, đôi khi thêm vào tiếng Việt như công tắc (contact), phích cắm (Fiche + cắm). Còn hầu hết các thuật ngữ khoa học kỹ thuật về điện được giảng dạy, sử dụng hàng ngày đều được dịch từ các tài liệu của Pháp như: Potentiel, Tension, Voltage chuyển sang là “Điện thế”; Đifférence de Pontentiel là “Hiệu số điện thế”; Transformateur là “Máy điện thế” và không thấy từ nào là “Điện áp” cả. Các từ điển Pháp - Việt của Đào Duy Anh, Đào Văn Tập, Đào Đăng Vĩ là các cuốn từ điển nổi tiếng thời đó đều căn cứ vào cuốn “Danh từ khoa học” để chuyển dịch.
Năm 1956 Trường Đại học Bách khoa Hà Nội được thành lập với một số trường Đại học khác trong đó bộ môn chuyên ngành phát dẫn điện (nay là ngành Hệ thống điện) được coi là cái nôi của ngành điện lớn mạnh ngày nay. Những năm chúng tôi học tại trường cũng không thấy có từ “áp” trong các thuật ngữ ghép về điện ở các buổi học và trong các tài liệu giảng dạy do giáo sư Liên Xô, phối hợp với các thầy giáo bộ môn phát dẫn điện biên soạn, kể cả những sách được các thầy Nguyễn Thế Hùng, Bùi Duyên, Hà Học Trạc, Vũ Gia Hanh, Nguyễn Bình Thành dịch từ tiếng Nga, các thầy cũng học ở Trung Quốc nên biết rõ từ “Áp” nhưng lại dịch theo các từ quen dùng của người đương thời cho dễ hoà nhập công việc thực tiễn.
Tuy nhiên, khi xem một số tài liệu giảng dạy thuộc bộ môn vô tuyến điện của trường do thầy Nguyễn Như Kim phụ trách, chúng tôi lại thấy đồng thời xuất hiện các từ điện thế, điện áp. Điều này hoàn toàn có lý vì đa số các thầy chuyên ngành vô tuyến điện tu học ở Trung Quốc về đã dịch tài liệu của nước này ra tiếng Việt, mà tiếng Trung Quốc thông thường lại trùng hợp với hán tự thông thường được dùng ở Việt Nam, nhất là từ “Áp” và “Điện áp”. Còn thuật ngữ “Điện vị” vẫn quen chuyển dịch sang tiếng Việt là “Điện thế” chỉ được dùng trong một số trường hợp mà thôi. Điều này trong cẩm nang thuật ngữ về điện của Trung Quốc có tên là “Nga - Hoa - Anh điện công từ vựng” đã ghi rất rõ các thuật ngữ như: Tướng điện áp (điện áp pha), tuyến điện áp (điện áp dây), tam tướng điện áp (điện áp ba pha), đê áp (điện áp thấp hay hạ áp), cao áp (cao áp hay điện áp cao), không tải điện áp (điện áp không tải), phóng điện điện áp ( điện áp phóng điện), đoản lộ điện áp (điện áp ngắn mạch hay điện áp đoản mạch), tiếp xúc điện áp (điện áp tiếp xúc), phân áp khí (chiết áp).
Tĩnh điện vị (điện thế tĩnh điện), phủ điện vị (điện thế không), biểu diện điện vị (điện thế bề mặt), điện cực điện vị (điện thế cực điện), đại địa điện vị (điện thế đất), điện ly điện vị (điện thế ion hoá).
Ngoài ra cần nhấn mạnh trong cẩm nang trên hai thuật ngữ mà người dùng là: biến áp khí tức là máy biến áp chứ không phải máy biến thế, cao áp tuyến (hay lộ) tức là đường dây cao áp chứ không phải đường dây cao thế.