Dạy thứ tiếng Việt nào cho người Việt Nam ở nước ngoài?
1.Về ý kiến cho rằng tài liệu dạy tiếng Việt cho cộng đồng người Việt ở Mĩ nên chú ý đến tiếng Anh (hiểu là cấu trúc ngữ pháp) và văn hoá Mĩ. (Và đối với các nước khác cũng theo nguyên tắc: phải tính đến ngôn ngữ và văn hoá nước sở tại).Lí do là thế hệ thứ hai và ba (sau năm 1975) gần như đã đứt khỏi cỗi rễ văn hoá Việt Nam (ví dụ, không biết cây tre là gì). Những chuyên gia đi khảo sát ở Mĩ về kể rằng, có trí thức Việt kiều còn khuyên ta có thể lấy chính sách giáo khoa dạy tiếng Anh ở Mĩ mà “phiên” thành sách học tiếng Việt!
Lời bàn:
Thứ nhất , tiếng nói không đơn thuần là để giao tiếp mà còn là phương tiện chuyển tải, lưu giữ văn hoá. Những người Việt ở Mĩ cũng như ở bất cứ nước nào học tiếng Việt không phải vì mảnh bằng để kiếm việc (nếu có cũng rất ít): mà để giao tiếp trong cộng đồng, và chủ yếu để giữ lấy “tinh thần nòi giống”. Nếu ta dạy theo cách trên thì họ sẽ nhận được một thứ tiếng Việt “bồi”, một thứ văn hoá Việt đã nhuốm màu “Tây”. Và như thế họ còn học tiếng Việt để làm gì?
Thứ hai , nếu tiếng Việt phát triển theo chiều hướng ấy sẽ vỡ thành nhiều mảng. Kiều bào ta ở Mĩ có thể nói tiếng Việt giọng Anh, ở Pháp có thể nói tiếng Việt giọng Pháp…, nhưng vẫn phải là tiếng Việt, chứ không thể là tiếng Việt - Anh, tiếng Việt - Pháp.
Cũng cần nói thêm rằng: các tài liệu dạy tiếng Việt cho người nước ngoài đang sinh sống và làm việc tại Việt Nam của ta hiện nay còn mô phỏng ngữ pháp Ấn – Âu khá nặng. Ví dụ, nhiều tác giả vẫn áp dụng khá triệt để mô hình câu chủ - vị, vẫn chia tiếng Việt thành ba “thì” (tương đương với đã - sẽ - đang). Tuy nhiên, điều đó có thể cũng không có hại bao nhiêu mà chỉ kém hiệu quả thôi, vì người nước ngoài ở Việt Nam học trong sách vở một phần, còn thì học trong thực tế. Vả lại, họ học chỉ để giao tiếp là chính, có một thứ tiếng Việt “bồi” thôi cũng tạm đủ. Còn với người Việt ở nước ngoài, như trên đã nói, học tiếng Việt là để gắn kết cộng đồng Việt ở nơi cư trú, để mãi mãi là một bộ phận của dân tộc Việt Nam, thì phải là một thứ tiếng Việt đích thực, nguyên chất(nói như thế không hề phủ nhận tiếng Việt hiện đại có tiếp thu các yếu tố ngoại lai một cách hợp lý). Có người sẽ bắt bẻ: kỳ vọng ở người Việt ở nước ngoài nói tiếng Việt như người bản ngữ là một ảo tưởng, mà phải chấp nhận thứ tiếng Việt có pha ngôn ngữ, văn hoá nước sở tại. Thì đúng là như thế. Nhưng hai việc này rất khác nhau. Quan điểm của chúng tôi là, chọn cái gốc làm chuẩn (để viết thành sách) và chấp nhận biến thể (trong thực tế sử dụng), chứ không chọn cái biến thể làm chuẩn.
2.Về ý kiến cho rằng tài liệu dạy học phải chú ý đến phương ngữ miềnNam . Lí do là người Việt ở Mĩ chủ yếu là người miền Nam di tản sau ngày 30/4/1975.
Lời bàn:
Thứ nhất , điều này không khoa học. Ở Việt Nam hiện có ba phương ngữ lớn (Trung, Nam, Bắc) nhưng tiếng Việt vẫn là một thể thống nhất vì ba miền có sự giao lưu mật thiết và nhất là, tuy không có văn bản nào quy định nhưng từ lâu (kể cả thời kỳ miền Nam bị tạm chiếm), mọi người Việt vẫn lấy tiếng Bắc làm ngôn ngữ văn hoá như một điều rất tự nhiên (tất nhiên có bổ sung mấy phụ âm r, s, tr). Bởi vì chỉ có tiếng Bắc mới phân biệt các phụ âm cuối n/ng, c/t, các phụ âm đầu v/d, h/q/g,các thanh điệu… Có những từ địa phương Nam Bộ không có trong tiếng Bắc, nên không có chuẩn để đối chiếu thì chính người Nam Bộ cũng không thể biết đâu là dạng chính tả đúng của nó. Ví dụ, vỏ lải(một loại xuồng gắn máy), viết vỏ lải/ giỏ lải/ vỏ lãi/ giỏ lãi, không biết cái nào là đúng, vì người Nam Bộ phát âm cả mấy cách ấy như nhau cả.
Thứ hai , điều này càng dẫn đến nguy cơ tiếng Việt vỡ ra nhiều mảng. Nếu dùng phương ngữ Bắc, tiếng Việt không những chính xác về chính tả mà còn là điều kiện để chúng ta có một tiếng Việt thống nhất. Còn nếu mỗi cộng đồng Việt ở mỗi nước được học một phương ngữ ( Nam , Trung hoặc Bắc, tuỳ theo cộng đồng nào chiếm đa số), trong khi lại không có điều kiện giao lưu và thống nhất như đồng bào trong nước, thì dứt khoát tiếng Việt sẽ vỡ ra nhiều mảng, ngày càng xa nhau.
Hẳn có người vẫn lo ngại, rằng cứ “cứng nhắc” như chúng tôi, cộng đồng người Việt hải ngoại từ chối thì sao? Chúng tôi chia sẻ những lo lắng ấy. Nhưng theo suy đoán của chúng tôi, nếu chúng ta soạn được một giáo trình hay, chính xác thì những người có nhu cầu học đích thực lẽ nào lại từ chối? Hơn nữa, theo kinh nghiệm của chúng tôi, càng những người bị đứt lìa khỏi cội rễ, thì xu hướng tìm về nguồn càng mạnh mẽ. Những thanh thiến niên Việt Nam lớn lên ở nước ngoài có thể lúc này thờ ơ với tiếng Việt, nhưng rồi sự đời dầu dãi, có thể đến một ngày nào đó, họ sẽ thấy cần phải nương tựa vào một cái gì “bất di bất dịch”, cái bất di bất dịch đó chính là “tinh thần nòi giống” (mượn cách nói của Hoài Thanh) có thể tìm thấy trong tiếng nói của cha ông.
Thay lời kết, tôi muốn dẫn ra bốn câu thơ của một nhà thơ Việt Nam ở hải ngoại để thấy kiều bào ta tha thiết với tiếng Việt “thuần Việt” như thế nào:
Mười mấy năm trời xa đất nước
Em còn nhớ tiếng ViệtNamkhông
Lòng có xôn xao nhớ thơ Nguyễn Bính
Chuyện thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông.
Nguồn: Ngôn ngữ & Đời sống, số 11 (121), 2005







