Đặng Huy Trứ và những cải cách đầy gian khó
Suốt cả đời , ông sống theo nguyên tắc bất tố xan(không ăn không). Đặc biệt, sau khi đỗ đạt, ra làm quan, từ Tri phủ, Bố chánh, Ngự sử cho đến khâm phái ngoại giao, ông luôn giữ quan điểm dân chính là người nuôi sống mình, nên suốt đời phải lo trả nợ dân. Ta là ai, chẳng gieo chẳng gặt – ăn của người mà không chút công lao... Quân tử làm trước rồi mới ăn – ăn không làm coi là nhục đó. Cả đời Đặng Huy Trứ viết hơn 300 bài thơ, văn; đặc biệt, ông khảo cứu và giới thiệu nhiều tác phẩm nước ngoài cho người trong nước biết đến cái hay, cái giỏi của họ để học tập. Vốn là người có học vấn uyên thâm và lòng yêu dân yêu nước sâu nặng, ngay từ những ngày mới ra làm quan, Đặng Huy Trứ đã nhiều lần đề xuất với triều đình những kiến giải thiết thực, nhằm đưa nước nhà thoát khỏi khó nguy. Ví dụ, năm 1861, vua Tự Đức có trưng cầu ý kiến quần thần: “Làm thế nào để đủ lương, đủ lính, sớm trừ được giặc Tây ?”. Đặng Huy Trứ đã trình kế sách 5 điều, trong đó có việc thành lập Ty vận chuyển.Đáng tiếc là vua Tự Đức đã không nghe ngay mà còn coi là ý kiến viển vông.
Đặng Huy Trứ có hai lần đi sứ, và ông đã dụng tâm mở rộng tầm nhìn để học người. Cái chí làm giàu cho dân cho nước cũng được hun đúc thêm từ đấy. Năm 1839 phát minh về nhiếp ảnh được công bố tại Viện hàn lâm khoa học Pháp. Năm 1869, Đặng Huy Trứ khai trương hiệu ảnh Cảm hiếu đườngtại Thanh Hà, Hà Nội. Toàn bộ nguyên liệu, máy móc để mở hiệu ảnh đầu tiên của Việt Nam này, ông tự mua về trong một chuyến đi công cán ở Quảng Châu. Hiệu ảnh được khai trương ngày 14-3-1869, là một sự kiện văn hoá lớn ở Hà Nội. Và rồi, cuối năm 1869 này, ông thành lập Trí trung đường, là nhà xuất bản, xưởng in và hiệu sách, cũng là một sự kiện văn hoá xã hội lớn ở Hà Nội ! Tại Trí trung đường, ông đã cho ra đời nhanh chóng hai cuốn binh thư, một là Kỷ sự tân biên, của Việt Nam , hai là Kim thang tá chủ thập thị trù,của Trung Quốc. Thời điểm này, thực dân Pháp đang mở rộng cuộc lấn chiếm nước ta, hai cuốn binh thư trên được ấn hành là một việc rất có ý nghĩa. Thời gian tiếp theo, Trí trung đườngcho ra đời nhiều ấn bản nữa: Nhị vi tập, Ngũ giới pháp thiếp, Đại Nam quốc sử diễn ca...đều được công chúng rất hoan nghênh. Có thể nói, Trí trung đườngcủa Đặng Huy Trứ đã có ảnh hưởng rất tích cực, truyền bá văn hoá, lịch sử cho nhân dân ở một thời điểm lịch sử sống còn nên có một ý nghĩa rất sâu sắc !
Kinh tế công, thương nghiệp là lĩnh vực đặng Huy Tứ quan tâm hàng đầu. Ông sớm đề ra chủ trương mở mang công nghệ. Ông đề nghị triều đình cho lập Cục cơ khí, mở xưởng đúc gang thép, chế tạo máy móc; lập Cục dạy nghề,mời chuyên gia nước ngoài đến dạy nghề và giảng về kỹ thuật mới, cử thanh niên ra nước ngoài học kỹ thuật... Ông không chỉ đề xuất phương cách, mà còn trực tiếp dấn thân vào thương trường. Sinh ra trong một gia đình nhà Nho, đã trở thành một danh gia khoa bảng Nho học, ông vượt lên định kiến xã hội đang coi thường nghề buôn khi viét sớ dâng triều đình: “Gia đình tôi là Nho gia đã bốn, năm đời, nghề buôn dẫu là nghề mạt, nhưng chịu ơn nước và tự xét mình, xin đảm nhận việc tài chính quốc gia, sớm tối lo toan chạy khắp đông, tây...”. Đó là năm 1866, khi đang làm biện lý Bộ Hộ, Đặng Huy Trứ mạnh dạn đề nghị Nhà nước cho lập một cơ quan buôn bán, lấy tên là Ty Bình Chuẩn. Số vốn Nhà nước cấp ban đầu 5 vạn quan, quá ít, ông vận động thêm vốn tư nhân. Phương thức Nhà nước và tư nhân cùng góp vốn kinh doanh, ở thời điểm đó, là vô cùng mới mẻ, táo bạo. Ty Bình Chuẩn đặt trụ sở tại phố Thanh Hà, Hà Nội (ở gần Ô Quan Chưởng ngày nay), kế bên khu buôn bán của Hà Nội lại gần ngay bến sông Hồng nên rất thuận tiện giao thương. Trụ sở tại Hà Nội, nhưng hoạt động thương mại của Ty Bình Chuẩn vươn tới tận Quảng Nam , Gia Định, Vĩnh Long... Một thời gian sau, tại phố Thanh Hà, ông cho mở ba cửa hàng lớn là Lạc Thanh, Lạc Sinh và Lạc Đức. Ba cửa hàng rất lớn này thu về một mối buôn bán các mặt hàng sơn, củ nâu, nông lâm sản và đặc biệt là muối. Bởi hiệu lực của ba cửa hàng này mà mặt hàng thiết yếu của Nhà nước đủ sức quản lý, bình ổn giá cả, vừa lợi cho người làm ra hàng hoá vừa lợi cho người tiêu dùng. Năm 1866, ông còn đứng ra tổ chức việc xuất cảng thiếc, tơ lụa và đường sang Hồng Công. Chỉ việc xuất cảng thiếc đã đem lại cho triều đình 8000 lạng bạc tiền thu thuế !
Để đẩy mạnh việc giao lưu hàng hoá, Đặng Huy Trứ đề nghị Nhà nước cho khơi sông ngòi và lập Ty vận chuyển. Trong quá trình trực tiếp với công việc buôn bán, ông sớm thấy sự bành trướng thế lực của các thương nhân người Hoa, và đã tìm hiểu cách ứng xử của các nước lân bang để trình bày với triều đình có đối sách hợp lý: “Nước Cao Ly hiện nay cấm Hoa thương mua rẻ bán đắt, tích trữ hàng hoá, không được nhập cảnh. Người trong nước tự ý mua hàng hoá của Hoa thương lập ức bị trị tội...” Như Đặng Huy Trứ viết, thì ông sớm nhìn thấy việc Nhà nước bảo trợ cho sản xuất và buôn bán trong nước là rất cần thiết. Ông quả là người có tầm nhìn sâu xa, dẫu công việc ông làm vô cùng gian nan. Ty Bình Chuẩn bắt đầu đi vào nề nếp, có một ảnh hưởng tích cực trong xã hội, có lợi cho dân sinh; và dường như mở ra một bước đi mới cho nền kinh tế nước ta, một đất nước hàng ngàn năm chỉ coi nông nghiệp là công việc chính.
Sau khi Ty Bình Chuẩn ngừng hoạt động, Đặng Huy Trứ còn tiến hành một số việc lớn nữa, tiêu biểu là việc mở hiệu ảnh Cảm hiếu đườngvà tạo lập Trí trung đường, như chúng tôi đã nói ở phần trên. Chưa khai thông cuộc cạnh tranh kinh tế, ông muốn có đóng góp thiết thực vào việc xây dựng con người văn hoá Việt Nam , và tiến tới làm trong sạch, làm lành mạnh xã hội. Nhưng khó khăn thay, thực dân Pháp đã quyết liệt trong việc mở rộng cuộc lấn chiếm nước ta. Đặng Huy Trứ được cử sang Hông Công và Áo Môn để nắm bắt tình hình và mua sắm vũ khí đối phó với thực dân Pháp. Thời kỳ này, ông sông cùng vợ, con ở Hà Nội. Khi Hà Nội thất thủ lần thứ nhất, năm 1873, ông chia tay vợ, con, rồi cùng Hoàng Kế Viêm rút lên Đồn Vàng (Hưng Hoá) xây dựng chiến khu chống Pháp lâu dài. Thương tiếc vô cùng, ông mất tại đây năm 1874, khi mới 49 tuổi đời ! Sự nghiệp của ông để lại thật đa dạng: dạy học, làm ngoại giao, làm thương mại, kinh tế - kỹ thuật, và cả chiến đấu chống ngoại xâm ! Suốt cuộc đời, ông viết nhiều thơ, văn và khảo cứu, và, qua những trang sách của ông để lại, ta thấy công việc ông làm cho thời đại ông sống thật to lớn, thật mới mẻ phi thường. Ông xứng đáng được ghi danh trong lịch sử, là một nhà cách tân lớn của thế kỷ XIX !