Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ tư, 11/01/2012 21:40 (GMT+7)

Dân chủ của nông dân và thực hiện quy chế dân chủ ở cở sở nông thôn hiện nay

Dân chủ XHCN là nền dân chủ được xây dựng và hình thành trong tiến trình xây dựng CNXH, mang bản chất giai cấp công nhân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản để thực hiện và đảm bảo quyền làm chủ thực sự của đông đảo quần chúng nhân dân đối với xã hội. Với tư cách là đỉnh cao trong toàn bộ lịch sử tiến hóa của dân chủ, dân chủ XHCN kết tinh trong bản thân mình toàn bộ những giá trị dân chủ đạt được trong lịch sử và hình thành những giá trị dân chủ mới về chất. Ở đây, dân chủ trở thành giá trị phổ biến của xã hội, thâm nhập vào mọi quan hệ, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, bao quát mọi góc độ trong sự tồn tại, phát triển của con người và xã hội.

Từ “dân là chủ” tiến lên thành “dân làm chủ” là một bước tiến về chất, một quá trình phấn đấu vượt qua rất nhiều khó khăn, trở ngại trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đai hóa đất nước theo định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay. Phải làm sao để người dân Việt Nam có điều kiện và biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình đúng lúc, đúng chỗ, dám nói, dám làm, dám đấu tranh để bảo vệ quyền lợi và trách nhiệm của mình theo pháp luật. Trong rất nhiều vấn đề đặt ra của việc xây dựng nền dân chủ XHCN ở nước ta hiện nay, vấn đề dân chủ của nông dân và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn là một vấn đề lớn vừa có ý nghĩa lý luận cơ bản, lâu dài, vừa có ý nghĩa thực tiễn và có tính thời sự cấp bách. Thực hiện thành công vấn đề này, sẽ tạo động lực to lớn thúc đẩy sự nghiệp đổi mới trên quy mô cả nước, giữ vững được sự ổn định chính trị - xã hội để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và xây dựng nông thôn mới; tạo nền tảng vững chắc để nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.

Dân chủ của nông dân là nói tới dân chủ của một cộng đồng xã hội rộng lớn ở nông thôn, một đối tượng xã hội đặc thù của nước ta trên con đường phát triển, một cơ sở xã hội quan trọng nhất của đổi mới, của ổn định để phát triển. Nông thôn Việt Nam có hơn 60 triệu người sống trong hơn 10 triệu hộ gia đình ở trên 10 nghìn cơ sở xã, phường, thị trấn của 64 tỉnh, thành cả nước. Nông dân sinh sống và làm ăn ở nông thôn làng xã gắn bó từ bao đời nay với nghề nông là chủ yếu(trồng trọt và chăn nuôi kết hợp với làm nghề truyền thống). Đây thực sự là đối tượng xã hội trọng điểm, quan trọng nhất mà toàn bộ nội dung, giải pháp xây dựng dân chủ ở nước ta hiện nay phải hướng tới, theo tinh thần “hướng về cơ sở, tất cả cho cơ sở”, “phát triển toàn diện nông thôn – nông nghiệp và nông dân”. Sự ổn định, đổi mới và phát triển đất nước, nếu coi nhân lực là nhân tố quan trọng hàng đầu, quyết định sự tiến bộ và phát triển xã hội thì nguồn nhân lực nông dân ở nông thôn nước ta đang đứng trước yêu cầu biến đổi có tính chất đột phá. Điều này càng cho thấy tầm quan trọng của dân chủ cho nông dân và sự cần thiết phải thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn làng xã nước ta.

Trong những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, nhiều điểm nóng có thể dẫn đến mất ổn định chính trị - xã hội lại chủ yếu diễn ra ở nông thôn. Sự việc Thái Bình từ năm 1994 đến năm 1997, Tây Nguyên từ năm 2001 đến năm 2004 là những ví dụ điển hình, một sự cảnh báo đối với thể chế. Nó làm sáng tỏ thực tiễn: xây dựng và phát huy dân chủ không tách rời cuộc đấu tranh kiên quyết và triệt để chống quan liêu, tham nhũng, chống lại sự thoái hóa biến chất của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức trong tất cả các tổ chức, bộ máy của thể chế. Quan liêu, tham nhũng, mất dân chủ đang làm suy yếu cơ sở xã hội của Đảng và Nhà nước bởi sự mất lòng tin của nhân dân, bởi những phản ứng của người dân bất bình trước “Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp…làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà Nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước” (1).

Xây dựng và phát huy dân chủ phải đặc biệt coi trọng dân chủ ở cơ sở bằng Quy chế dân chủ ở cơ sở, “Thực hiện tốt hơn Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn(2), đặc biệt là đối với nông dân ở các làng xã. Nói tới cơ sở là nói tới dân và cuộc sống của dân, tới cán bộ cơ sở và bộ máy thể chế ở cơ sở. Là hình ảnh thu nhỏ của xã hội, cơ sở làng xã không chỉ là “cái vi mô” mà thực chất nó chính là “cái vĩ mô” được thu nhỏ lại, do đó phải giải quyết những vấn đề phát triển ở làng xã với tầm nhìn vĩ mô, chiến lược. Dân trí thấp là một trở ngại để phát triển dân chủ, đói nghèo, lạc hậu cũng làm cản trở không ít sự quan tâm tới dân chủ. Hai trở ngại này đang tồn tại rất rõ nét ở cơ sở, ở chính nông dân, một lực lượng chiếm số đông trong xã hội ta. Trong điều kiện của nước ta, do những đặc điểm hiện tại và hoàn cảnh lịch sử, việc giải quyết thành công vấn đề ổn định để phát triển đối với nông dân, hộ nông dân, thể chế nông thôn làng xã sẽ quyết định một phần lớn toàn bộ chiến lược phát triển của xã hội, góp phần quan trọng để “Xây dựng phát huy vai trò chủ thể của giai cấp nông dân trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn” (3).

Dân chủ của nông dân, ở nông thôn, xét trên một mức độ nào đó, có thể nói, đó là dân chủ của nhân dân lao động ở nước ta, ở mọi tầng lớp của cơ cấu xã hội. Bởi lẽ cho đến nay, nước ta căn bản vẫn là một nước nông nghiệp, tỷ lệ cơ cấu lao động trong nông nghiệp chiếm 48,2% (năm 2010), nông dân vẫn là đại diện chủ yếu cho cộng đồng dân cư.

Xuyên suốt các thời kỳ, các giai đoạn của cách mạng Việt Nam, vấn đề độc lập dân tộc và dân chủ luôn luôn là những vấn đề sống còn của dân tộc ta, là vấn đề bức xúc của tồn tại và phát triển đối với dân tộc và nông dân, một bộ phận dân cư chiếm số đông nhất trong xã hội Việt Nam. Dù trong quá trình phát triển, thường có những dích dắc và thăng trầm nào đó, nhưng xu hướng phát triển của xã hội ta tất yếu chỉ có thể là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đối với nông dân và nông thôn nước ta, chỉ có độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mới là con đường đảm bảo chắc chắn nhất và có triển vọng nhất để đưa nông dân tới cuộc sống ấm no về vật chất, văn minh và hạnh phúc về tinh thần. Đó cũng là con đường phát triển tất yếu lâu dài của cách mạng Việt Nam, là quy luật phát triển của xã hội ta trong thời đại hiện nay. Để thực hiện được độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thì phải thực hiện và phát triển dân chủ. Dân chủ vừa là điều kiện vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển bền vững, thực chất của độc lập dân tộc. Dân chủ còn thuộc về nội dung và giá trị nói lên bản chất của chủ nghĩa xã hội. Dân chủ là sự khẳng định và đảm bảo trên thực tế quyền làm chủ xã hội của nhân dân lao động. “ Dân chủ xã hội chủ nghĩalà bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước…” (4).

Nền dân chủ mà chúng ta xây dựng là nền dân chủ đảm bảo lợi ích và quyền lực của đa số nhân dân lao động. Đó là nền dân chủ của số đông, nền dân chủ XHCN chứ không phải dân chủ của số ít, của thiểu số thuộc giai cấp thống trị như nền dân chủ tư sản. Qua 25 năm thực hiện đổi mới đất nước, thành tựu đạt được là rất to lớn, nhưng những hạn chế khiếm khuyết và những vấn đề phát sinh cũng không nhỏ. Nhìn từ góc độ dân chủ và dân chủ hóa thì những hạn chế, khiếm khuyết và những vấn đề phát sinh đó đều liên quan trực tiếp đến vấn đề dân chủ của nông dân và dân chủ ở nông thôn. Do đó, đẩy mạnh cuộc vận động thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở hiện nay ở nước ta, trước hết và chủ yếu là thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn, dân chủ ở làng xã đối với nông dân.

Dân chủ của nông dân trước hết phải hướng vào những nội dung của hai lĩnh vực có quan hệ trực tiếp với sự tồn tại và phát triển của người nông dân. Đó là dân chủ trong kinh tế và dân chủ trong chính trị. Nếu dân chủ là thực hiện những lợi ích và những quyền cơ bản mà người dân phải được hưởng với tư cách người chủ, là sự gắn liền giữa quyền với nghĩa vụ, lợi ích với trách nhiệm thì thực hiện dân chủ cho nông dân ở nông thôn hiện nay phải tập trung giải quyết những vấn đề thiết thân nhất đối với họ. Đó là: có việc làm ổn định, có điều kiện để phát triển sản xuất, có đời sống vật chất, tinh thần được cải thiện, được sống trong môi trường xã hội nông thôn(làng, xã, thôn, bản, ấp) bình yên, lành mạnh, tiến bộ để họ và con em họ có thể phát huy được những khả năng sáng tạo của mình, được quyền chủ động và tích cực tham gia vào các công việc của quản lý, của hoạt động kinh tế - xã hội, văn hóa thực sự có quyền lựa chọn người đại diện cho họ mà ủy quyền, đồng thời cũng thực sự giám sát, kiểm soát hoạt động, kết quả công việc và phẩm chất của những người đại diện cho những người đại diện cho sự ủy quyền đó của dân.

Quyền dân chủ cũng đồng thời là nghĩa vụ, bổn phận góp sức vào xây dựng thể chế dân chủ, đấu tranh làm cho thể chế ấy trở nên trong sạch, vững mạnh. Ở đây là đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, chống lợi dụng chức quyền để làm tổn hại đến lợi ích chung, xâm phạm quyền dân chủ của dân, đấu tranh chống lại những hành vi đè nén, áp bức dân chúng, hống hách, cửa quyền, nhũng nhiễu và xách nhiễu dân chúng của những người có chức, có quyền. Do đó, giải quyết những vấn đề dân chủ của nông dân không thể không liên quan tới việc đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh nhất những quy định về quyền và nghĩa vụ của dân, với tư cách là chủ hộ sản xuất, kinh doanh, chủ trang trại, thành viên của kinh tế hợp tác xã; của người công dân có quan hệ trực tiếp với pháp luật, các chính quyền từ Ủy ban nhân dân xã tại cơ sở tới nhà nước các cấp ở địa phương và Nhà nước trung ương. Việc thực hiện những quy định về quyền và nghĩa vụ đó của công dân phải dựa vào Hiến pháp, pháp luật chính thống của Nhà nước, những chủ trương, chính sách đã ban hành và có hiệu lực pháp lý của Nhà nước, của các cấp chính quyền ở địa phương và cơ sở trên nguyên tắc đúng luật và công khai.

Người dân ở nông thôn thường xuyên có quan hệ với thể chế và đội ngũ cán bộ, công chức trong thể chế. Quan hệ đó là quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ, là quan hệ giữa con người với tổ chức và công việc, quan hệ giữa con người với con người. Thể chế và đội ngũ cán bộ, công chức trong thể chế phải coi dân là chủ thể ủy quyền của mình, là đối tượng phục vụ mình, dân cũng là lực lượng giám sát, kiểm tra mọi hoạt động của mình. Quan hệ đó phải diễn ra trên tinh thần pháp luật, kỷ cương, kỷ luật, nó phải thấm nhuần tính pháp lý và tính nhân văn, thể hiện sự bình đẳng, hợp tác, giúp đỡ và tôn trọng lẫn nhau. Quan hệ đó cũng chính là đạo đức, là văn hóa của từng công dân và của Nhà nước dân chủ pháp quyền.

Vấn đề cải cách thể chế, xây dựng chính quyền và hệ thống chính trị nói chung ở cơ sở làng xã là một vấn đề rất lớn phải giải quyết để thực hiện quyền dân chủ chính trị cho nông dân. Quy chế dân chủ ở xã mà Trung ương Đảng và Chính phủ ban hành hướng chủ yếu vào thực hiện mục đích này. Tinh thần cơ bản của quy chế dân chủ ở nông thôn làng xã là thực hiện triệt để các biện pháp chống quan liêu, tham nhũng, làm trong sạch thể chế từ cơ sở, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở xã, thôn, làng, bản, ấp, coi đó là khâu quyết định hiệu lực, hiệu quả của chính quyền cơ sở, của hệ thống chính trị ở cơ sở. Sự ủy quyền của dân có đảm bảo được lành mạnh và có làm cho dân thực sự là người chủ không, có ngăn ngừa được những biến dạng phản dân chủ hay không, điều đó tùy thuộc vào một phần lớn vào phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ, vào sự đoàn kết nhất trí và phối hợp hành động cùng với sự đổi mới phương pháp hoạt động của các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể ở nông thôn. Trong tình hình hiện nay, để tránh cho Quy chế dân chủ ở cơ sở rơi vào hình thức, cần thực hiện một số giải pháp hỗ trợ sau:

-       Sửa chữa, bổ sung, hoàn thiện về mặt văn bản và tăng cường tính pháp lý, tính chế tài của quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở nông thôn. Tính đến thực tế về trình độ nhận thức và tâm lý nông dân, quy chế cần sự phong phú, sâu sắc hơn về nội dung tư tưởng, tính cụ thể thiết thực, tính chặt chẽ, hàm súc, thu gọn số trang, số điều, theo phương châm ít lời, nhiều ý, ngắn gọn, giản dị, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thuộc, dễ thực hiện, dễ kiểm tra, đánh giá.

-       Nhà nước trung ương và địa phương cần tập trung đầu tư kinh phí để in ấn hàng loạt các văn bản quy chế và đưa tới tận từng hộ gia đình. Huy động các phương tiện thông tin đại chúng để quảng bá rộng rãi thông tin, tuyên truyền, giáo dục nhận thức về quy chế trong toàn dân, đặc biệt là nông dân ở nông thôn. Thực hiện xây dựng các thiết chế văn hóa cho tất cả các thôn, làng, ít nhất mỗi thôn, làng có một hội trường hay nhà văn hóa làm trụ sở họp dân và các hộ dân.

-       Triển khai thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở cùng với thực hiện Nghị quyết dân chủ ở cơ sở cùng với thực hiện Nghị quyết Trung ương V khóa IX của Đảng về đổi mới hệ thống chính trị, lấy cải cách chính quyền cơ sở (xã) và chất lượng đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng cán bộ làm khâu đột phá. Đưa quy chế dân chủ vào nội dung giảng dạy, đào tạo chính thức tại các trường chính trị tỉnh và các trung tâm giáo dục huyện.

-       Kiểm soát chặt chẽ và chấn chỉnh tình trạng các hương ước đang tồn tại trái với luật đang hiện hành.

-       Xóa bỏ “cơ chế xin - cho” trong mọi lĩnh vực, đặc biệt là trong xây dựng, đấu thầu, phân bố dự án. Đây chính là đầu mối xuất hiện tham nhũng, bòn rút quỹ công, làm tổn hại lợi ích của nông dân.

Đó là một số giải pháp có tính cấp bách. Cần lưu ý rằng, Quy chế dân chủ ở cơ sở sẽ tồn tại lâu dài như một đạo luật, như một chính sách xây dựng và phát triển dân chủ ở nước ta. Để chính sách đó thực sự phát huy tác dụng đối với xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội và phát triển sức dân, thì mấu chốt vẫn là đội ngũ cán bộ thực thi chính sách. Bởi lẽ: “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém” (5). Và “Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công hoặc thất bại của chính sách đó là do cách tổ chức công việc, nơi chọn lựa cán bộ và do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài, thì chính sách đúng mấy cũng vô ích” (6). Những chỉ dẫn sâu sắc đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh cần được ghi nhớ và thực hiện có hiệu quả trong thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay./.

-------------------------------------

(1), (2), (3), (4)ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.173, 239, 80, 84 - 85.

(5), (6)Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5,NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.240, 520.

Xem Thêm

Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Vai trò nòng cốt, quy tụ trí tuệ, kết nối nguồn lực của VAA trong điều khiển và tự động hóa
Ngày 27/12 tại Hà Nội, Hội Tự động hóa Việt Nam (VAA) long trọng tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, nhiệm kỳ 2025-2030. Với chủ đề “Tiếp nối - Phát triển”, Đại hội thể hiện rõ định hướng kế thừa, đổi mới và quyết tâm của VAA trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, nơi khoa học - công nghệ và tự động hóa giữ vai trò then chốt.
Gia Lai: Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tổng kết hoạt động năm 2025
Ngày 26/12/2025, tại phường Quy Nhơn, Hội nghị Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Gia Lai (Liên hiệp hội) lần thứ III đã diễn ra với sự tham dự của đại diện lãnh đạo Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, các ủy viên Ban Chấp hành, đại diện các đơn vị thành viên Liên hiệp hội.
Vĩnh Long: Tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành tổng kết hoạt động năm 2025 và phương hướng nhiệm vụ năm 2026
Sáng ngày 26/12, tại Hội trường Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị phường Phước Hậu, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long (Liên hiệp hội) tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành năm 2025. Hội nghị do Ban Thường vụ Liên hiệp hội tỉnh chủ trì, với sự tham dự của các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành và đại diện lãnh đạo các sở, ban, ngành liên quan.
Thanh Hóa: Tổng kết Hội thi Sáng tạo kỹ thuật cấp tỉnh lần thứ 14 (2024 - 2025)
Sáng ngày 25/12/2025, Ban Tổ chức Hội thi Sáng tạo kỹ thuật Thanh Hóa (Hội thi) tổ chức Lễ tổng kết và trao giải thưởng Hội thi lần thứ 14 (2024 - 2025). Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Phạm Ngọc Linh đã tham dự, phát biểu chúc mừng Ban Tổ chức Hội thi và các tập thể, cá nhân đạt giải tại buổi lễ.
Đắk Lắk: TS. Phan Xuân Lĩnh được bầu làm Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh
Ngày 25/12/2025, Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức Hội nghị về thực hiện quy trình công tác cán bộ. Tại Hội nghị, với 100% số phiếu nhất trí, Ban Chấp hành đã bầu TS. Phan Xuân Lĩnh tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk khóa I, nhiệm kỳ 2025 - 2030.
Khối Khoa học xã hội tổng kết công tác năm 2025
Sáng 23/12, tại Hà Nội, Khối Khoa học xã hội (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức hội nghị tổng kết hoạt động năm 2025 và đề ra nhiệm vụ thực hiện năm 2026. Đến dự có đại diện Thường trực Hội đồng Thi đua- Khen thưởng Liên hiệp Hội Việt Nam; lãnh đạo của các đơn vị thành viện thuộc Khối Khoa học xã hội.
Ông Bùi Trung Kiên được tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2025-2030
Chiều ngày 24/12, TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), đã tới dự và phát biểu chỉ đạo tại Đại hội đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hưng Yên (Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên) lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể Trung ương lần thứ I: Thống nhất trong đa dạng
Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể TƯ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 không chỉ là một dấu mốc về mặt tổ chức, mà còn mang ý nghĩa lịch sử, mở ra chặng đường phát triển mới cho công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong toàn khối. Đại hội thể hiện sâu sắc sự "thống nhất trong đa dạng" - đa dạng về hình thái các tổ chức đoàn trực thuộc và thống nhất về mục tiêu hành động.
Vĩnh Long: Tổng kết Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, Nhi đồng và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa
Sáng ngày 24/12/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, các đơn vị có liên quan tổ chức Hội nghị tổng kết và trao giải Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, nhi đồng tỉnh Vĩnh Long lần thứ XIV, năm học 2024-2025 và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa lần thứ X, năm 2024-2025.
Nhìn lại năm 2025: Những con số biết nói thể hiện sự đóng góp đối với xã hội từ các tổ chức KH&CN trực thuộc VUSTA
Năm 2025, các tổ chức KH&CN trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét, là minh chứng sinh động cho vai trò tiên phong của KHCN trong phụng sự xã hội. Hàng trăm đề tài, dự án KH&CN được triển khai hiệu quả đã lan tỏa giá trị thiết thực trong chăm sóc sức khỏe, xóa đói giảm nghèo, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường và phản biện chính sách.
Thanh Hoá: Phản biện đề án tiêu úng kênh Bắc Sông Chu, Nam sông Mã
Sáng ngày 18/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa (Liên hiệp hội) tổ chức Hội thảo khoa học phản biện “Đề án nghiên cứu các giải pháp tiêu úng cho khu vực các huyện Yên Định, Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Ngọc Lặc sau khi hệ thống kênh Bắc Sông Chu - Nam sông Mã đưa vào khai thác, sử dụng” do Sở Nông nghiệp và Môi trường làm cơ quan soạn thảo.