Cuốn Niên lịch cuối cùng của nhà Nguyễn
Theo chúng tôi được biết, ở Hà Nội, hiện có cuốn Khâm định vạn niên thưdo Khâm thiên giám triều Nguyễn soạn và khắc in vào năm 1850, và cuốn Thành thái bách niên lịch 1889 – 1988do Lê Hữu Ích soạn vào giữa đời Thành Thái, khoảng năm 1900. Ở cuốn Khâm định vạn niên thư, lịch từ năm 1544 đến năm 1850, là lịch từng được dùng ở đương thời, còn lịch từ năm 1850 đến năm 1903 chỉ là lịch dự soạn. Thuộc loại dưới có cuốn Bách trúng kinhđược khắc in vào thời Lê và cuốn Lịch đại niên kỷ bách trúng kinhđược Viễn Đông Bác cổ Pháp cho chép vào khoảng các năm 1904 – 1907. Hàng năm, các lịch quan theo các cuốn Vạn niên thưrà soát kỹ lại lịch năm tới, tính thêm các ngày giờ tốt xấu, tiết khí, giờ chuyển tiết… sau đó trình lên vua. Lịch được duyệt, đem khắc in gọi là Niên lịchđể cuối năm nhà vua thay trời đất ban bố lịch cho quan dân dùng, ban tiết khí cho dân cấy cày. Niên lịchcó nhiều loại: loại ban cho dân, loại ban cho quan, loại dùng trong Hoàng tộc.
Trên tạp chí Hán Nôm, số 6 (73) 2005, TS. Nguyễn Công Việt có viết bài Sơ lược về 24 Tiết khí trong Đại Nam Hiệp Kỷ lịch thời Nguyễndựa trên mấy cuốn Hiệp Kỷ lịchcòn lưu giữ ở thư viện Viện Hán Nôm. Hai chục năm trước, chúng tôi cũng đã đọc ở Thư viện này 3 cuốn Hiệp Kỷ lịchnày của nhà Nguyễn khắc in lịch các năm 1901, 1904, 1918. Vì thế, khi được ông Hồ Vĩnh cho xem cuốn lịch Đại Nam Bảo Đại nhị thập tếu thứ Ất Dậu Hiệp Kỷ lịchdo ông sở hữu, chúng tôi thấy ngay nó rất quý, khác hẳn 3 cuốn lịch trên, có lẽ nó là cúôn lịch được dùng trong Hoàng tộc.
Chúng tôi xin mô tả qua về cuốn lịch này.
Cuốn lịch có 41 trang, trừ trang bìa, còn lại đánh số từ 1 đến 40.
Ở chính giữa trang bìa in cột chữ màu đen trong khung hình chữ nhật hẹp: Đại Nam Bảo Đại nhị thập niên tuế thứ Ất Dậu Hiệp Kỷ lịch”. Đây là cuốn lịch năm Ất Dậu, Bảo Đại thứ 20, tức năm 1945, năm cuối cùng của nhà Nguyễn.
Trang 1 và 2 ghi về 24 ngày Khí ở Phủ Thừa Thiên – Đô thành nhà Nguyễn “Đô thành Thừa Thiên phủ tiết khí thần khắc”, ghi rõ ngày theo lịch Âm và Can Chi, giờ, khắc phân. Chữ “thần” viết thay cho chữ “thì” vốn bị cấm dùng do kỵ huý vua Tự Đức. Do kỵ huý vua Gia Long, tiết Mang chủng được viết thành Mang thực. Hai trang này có một nét đặc biệt là vào các tháng Giêng, Hai, Năm, Chín, Mười, Chạp có in đài lên và dùng màu đỏ để ghi các ngày Quốc lễ, chẳng hạn ngày mồng 2 tháng năm là ngày “Hưng Quốc”, tức là ngày vua Gia Long lên ngôi Hoàng đế. Việc in 2 màu ở cuốn lịch này, tuy chỉ có 2 trang và con dấu đỏ ở bìa, nhưng cũng chỉ là việc hiếm gặp ở thư tịch cổ. Cho đến nay, theo chúng tôi biết duy nhất chỉ có cúôn lịch Khâm định vạn niên thưđược in 2 màu mực trên hàng chục trang giấy.
Trang 3 và 4 ghi “Niên thần phương vị” cho năm Ất Dậu này.
Trang 5 và 6 ghi tiết khí và ngày, giờ, khắc, phân chuyển tiết khí của các địa phương ngoài Phủ Thừa Thiên, các địa phương cùng kinh đô tất có cùng giờ chuyển tiết nên được xếp chung vào một khung ngang, chẳng hạn Hà Tiên, Thái Nguyên, Tuyên Quang, hoặc các địa phương khác cùng kinh độ: Hà Tĩnh, Ninh Bình, Bắc Ninh, Hưng Yên.
Do sơ xuất, bản chụp này thiếu trang 7 và 8.
Từ trang 9 đến trang 32, cứ 2 trang dành cho 1 tháng liệt kê đủ các ngày, mỗi ngày đều ghi Can Chi, Ngũ hành, Nhị thập bát tú, Trực tinh và sau đó là các việc nên làm, các việc nên tránh tựa như các cuốn lịch “vạn sự” hiện nay vẫn in. Tên lịch thời Nguyễn là “Hiệp Kỷ”, khiến ta có thể liên tưởng đến việc “trạch cát” này đã dựa vào cúôn Khâm định Hiệp kỷ biện phương thưđược soạn theo lệnh vua nhà Thanh có trong Từ khố toàn thư. Cuốn này được ông Vũ Hoàng dịch lấy tên là Hiệp biện phương thư, Nxb Mũi Cà Mau in năm 1998. Chúng tôi kiểm chứng lại một số ngày thì thấy việc trạch cát quả là đã tuân theo các phép tắc của cuốn sách trên. Khác với 3 cuốn Hiệp kỷ lịchở Thư viện Viện Hán Nôm ở chỗ: ở các trang này có ghi các ngày kỵ của các vị chúa từ Nguyễn Kim đến Nguyễn Phúc Thuần, các vị vua từ Gia Long đến Khải Định và cả một số bà Hoàng Thái Hậu. Miếu hiệu các vị vua, chúa, Hoàng Thái Hậu được in trên đài lên ở phía trên khung lịch thẳng cột với ngày kỵ. Chẳng hạn chữ “Gia Dụ Hoàng đế Trường Cơ lăng kỵ thần” ở phía trên ngày mồng 3 tháng sáu, cho ta biết chúa Nguyễn Hoàng mất ngày đó và táng tại lăng Trường Cơ.“Thế tổ Cao Hoàng Đế Thiên Thụ lăng kỵ thần” ghi phía trên ngày 19 tháng Chạp là ngày mất của vua Gia Long táng tại lăng Thiên Thụ… Các sự kiện này đều được ghi trùng với cuốn Nguyễn Phúc Tộc thế phảcủa Hội đồng trị sự Nguyễn Phúc tộc, Nxb Thuận Hoá, năm 1995 mà tôi đã tham khảo để soạn phần Niên biểu nhà Nguyễn và Thế phả họ Nguyễn ở cúôn Lịch và niên biểu lịch sử 20 thế kỷ (0001 – 2010), Nxb Thống kê, năm 2000; hiện đang được sửa chữa bổ sung thành cuốn Lịch và niên biểu lịch sử 21 thế kỷ (0001 – 2010)để xuất bản vào năm 2007. Có thể xem các ngày kỵ ở cuốn lịch này là tư liệu chuẩn xác để khẳng định Nguyễn Phúc Tộc thế phảđã viết các sự kiện này một cách chính xác.
Ở cuốn có ghi tên những người chịu trách nhiệm và biên soạn cuốn lịch này. Cụ thể trang 39 ghi các vị quan phụ trách công việc biên tập, chịu trách nhiệm về việc in ấn.
Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã từng gặp ba lịch quan Hoàng Thiện, Nguyễn Văn Hà, Lê Văn Thái này khi đến thăm Khâm thiên giám triều Nguyễn vào năm 1943 và đã “ghi lại tên ba nhân viên cuối cùng của ty để làm kỷ niệm” trong cuốn Lịch và lịch Việt Nam, Paris, 1982, học giả nhận xét: “Những viên phụ trách thực sự bấy giờ chỉ còn ba người, cầm đầu bởi Giám chính Hoàng Thiện có lẽ dòng Hoàng Công Dương, phụ viên là hai “khác cẩn” Nguyễn Văn Hà và Lê Văn Thái. Năm 1943, tôi có dịp đến thăm ty, thu hẹp chỉ còn là một gian nhà với một bàn, một sập, một tủ và mấy cái ghế. Dụng cụ làm việc có mấy tập sách chữ Hán và ba bốn bàn châu toán cỡ lớn hơn những bàn toán thường (vì trong khi tính, nhiều khi phải nhân và chia những số chiếm đến 10 cột). Tuy với phương tiện sơ sài như thế, mà ty không tính lịch mà còn, theo những phép lập hành, dự tính các nhật thực, nguyệt thực. Kết quả là khá mật xác đã làm nhân viên thực dân bấy giờ phải ngạc nhiên”.
Vì sự nghiêm cẩn khi soạn thảo và in ấn, cùng những thông tin nổi trội của cuốn lịch này so với mấy cuốn Lịch Hiệp kỷkhác được lưu giữ tại Thư viện Viện Hán Nôm, đặc biệt có các ngày kỵ các vị vua chúa, nên tôi cho rằng: Có thể cuốn lịch này đã được phát cho những người Hoàng tộc.
Cũng nên biết thêm đôi điều về lịch sử nhà Nguyễn. Ngay từ thời mở nước về phương Nam, các chúa Nguyễn đã soạn lấy một lịch riêng từ năm 1631 đến 1801, khác hẳn lịch của Trịnh – Lê ở Đàng Ngoài và lịch Tây Sơn, tất nhiên cũng khác lịch nhà Thanh. Tiếp tục truyền thống đó, 11 năm đầu các lịch quan nhà Nguyễn soạn lịch theo phép Đại Thống, trong khi nhà Thanh theo phép Thời Hiến, dùng cả các giáo sĩ phương Tây lam lịch quan, nên hai lịch khác nhau. Có 4 lần các tháng nhuận của các năm Quý Hợi (1803), Ất Sửu (1805), Mậu Thìn (1808) và Tân Mùi (1811) ở 2 lịch khác nhau, đó là sự khác nhau lớn. Do không biết đến sự khác nhau này, nên trước đây các nhà khảo cứu không xác định đúng ngày mất của thượng thư nhà Tây Sơn là Ngô Thì Nhậm vào năm 1803. Năm 1810, Nguyễn Hữu Thận làm chánh sứ sang nhà Thanh; mang về bộ sách Lịch tượng khảo thành; sách nói về phép làm lịch Thời Hiến của nhà Thanh. Năm 1812, ông được giao kiêm chức Phó quản lý Khâm thiên giám. Từ đó, lịch Hiệp kỷ của nhà Nguyễn được soạn theo phép Thời Hiến của nhà Thanh, nên lịch Việt Nam lại rất giống lịch Trung Quốc. Trong vòng 133 năm, từ 1813 đến 1945, chỉ có 4 lần lịch ta khác lịch Trung Quốc về ngày sóc (ngày mồng 1), có thể coi đó là sự khác nhau nhỏ. Là một đại thần Nguyễn Hữu Thân từng trải Thương thư các bộ: Lại, Hộ, Hình, Binh, có lúc kiêm quản hai bộ, tuổi lại cao, nhưng đương thời ông vẫn là một nhà khoa học xuất sắc, giỏi lịch pháp, toán pháp. Nhà vua từng khen: “Phép tính lịch rất tinh vi, duy có Nguyễn Hữu Thận đủ học thuật để biết được”.
Đầu thế kỷ XX, do nhu cầu quản lý hành chính, người Pháp phải cho soạn các cuốn đối chiếu lịch Âm với lịch Dương như cuốn Việt Pháp hợp lịchcủa Deloustal in năm 1908, rồi Âm Dương hợp lịchcủa Cordier và Lê Đức Hoạt in năm 1935. Các tác giả đó đều cho rằng Việt Nam xưa nay cũng như các nước Đông Nam Á khác chỉ dùng lịch của Trung Quốc, nên họ tham khảo cuốn Nhận xét về lịch sử Trung Quốc và đối chiếu với lịch châu Âu in năm 1885 và cuốn Trung Tây niên lịch thông khảoin năm 1910 của P. Hoang, một giáo sĩ phương Tây sống mấy chục năm ở Trung Quốc viết ra để soạn mấy cuốn lịch trên. Họ không tìm kiếm lịch Việt Nam, có trong ba cuốn lịch ở Hà Nội mà chúng tôi vừa kể và rất có thể ngày ấy còn các cuốn lịch cổ khác được lưu giữ tại Khâm thiêm giám ở Huế để tham chiếu. Tất nhiên như vậy, các cuốn lịch của họ chỉ có lịch Trung Quốc. Những cúôn lịch này có đối chiếu lịch Dương với lịch Âm, rất tiện dụng, chúng được in với số lượng lớn, được dùng chính thức trong mọi giao dịch ở Bắc Kỳ và Nam Kỳ khiến cho cái thiên kiến của tác giả đó được áp đặt vào nhận thức chẳng những của người ngoại quốc mà cả của người Việt Nam, chẳng những nó ăn sâu vào tiềm thức nhân dân mà cả trong giới khoa học. Sau này nhà giáo Nguyễn Như Lân soạn cuốn 200 năm Dương lịch và Âm lịch đối chiếu, in năm 1968; Vụ Bảo tồn Bảo tàng soạn cuốn Niên biểu Việt Nam,in năm1 970; Nguyễn Trọng Bỉnh, Nguyễn Linh và Bùi Viết Nghị soạn cuốn Bảng đối chiếu Âm Dương lịch 2000 nămvà niên biểu lịch sử, in năm 1976 cũng đều lặp lại cái sai đó.
Vào năm 1944, do được đọc một bảng chép tay của cúôn Bách trúng kinh, Học giả Hoàng Xuân Hãn đã phát hiện ra rằng lịch nhà Lê khác lịch nhà Thanh và viết bài Lịch và lịch đời Lêđăng trên tạp chí Khoa họcvà tạp chí Thanh nghị.Năm 1982, sau nhiều năm nghiên cứu Học giả Hoàng Xuân Hãn cho in cuốn Lịch và lịch Việt Namđể công bố kết quả nghiên cứu của mình về lịch Việt Nam. Trong sách này Học giả đã chứng minh và kết luận: vào thời Lý, thời Trần, trong khoảng 220 năm từ 1080 đến 1300 và thời Lê, thời Tây Sơn, thời Nguyễn, trong khoảng 169 năm từ 1644 đến 1812 lịch ta khác hẳn lịch Trung Quốc. Học giả còn công bố lịch theo phép Đại Thống từ năm 1644 đến năm 1812 do mình phục tính và cho rằng đó là lịch Việt Nam. Đó là những luận đoán khoa học rất xuất sắc, mở đường cho việc phát hiện lịch Việt Nam .
Năm 1985 chúng tôi được đọc bản in cuối Bách trúng kinhdo Tư thiên giám nhà Lê soạn và khắc in, năm 1993 được đọc bản in cuốn Khâm định vạn niên thưdo Khâm niên giám triều Nguyễn soạn và khắc in vào năm 1850. Qua đó vấn đề lịch cổ Việt Nam đã được giải quyết một bước cơ bản: tìm thấy lịch Việt Nam từ năm 1544 trở lại đây, trong đó có 171 năm, từ 1631 đến 1801 có 2 lịch song hành, công bố trong cuốn Lịch và niên biểu lịch sử hai mươi thế kỷ (0001 – 2010), Nxb Thống kê, 2000.
Cần phân biệt, nhà Nguyễn dùng pháp Thời Hiến trong sách Lịch tượng khải thànhcủa nhà Thanh để tính lịch Âm và tiết khí, cũng như nhật thực, nguyệt thực; còn dùng phép Hiệp Kỷ trong cuốn Khâm định Hiệp kỷ biện phương thư đểtính ngày tốt, ngày xấu.
Để kết lại bài này, chúng tôi muốn nói rằng: Cúôn Đại Nam Bảo Đại nhị thập tuế thứ Ất Dậu Hiệp kỷ lịchnày là một kỷ vật quý, một di sản có giá trị văn hoá, lịch sử của nhà Nguyễn rất đáng lưu giữ và trân trọng.
Tìm đọc
Huế Xưa & Nay (số 1 – 2 – 2007).
- Huế đăng quang trên nền văn hoá Việt Nam cởi mở.
- Tế tửu Quốc Tử Giám khiếu năng tĩnh với nhà yêu nước Phan Bội Châu.
- Phong trào Đông Du ở Nam kỳ.
- Cái mân trong văn hoá ẩm thực của người Việt.
- Nét đan thanh về văn hoá ẩm thực Huế xưa.
- Phan Khôi với Tế qua ký ức của con gái…
Huế Xưa & Nay được bán tại (181 Đề Thám – Q1 – TP. HCM) – ĐT: 8385117 – 8385126 – 838540.
Nguồn: Xưa & Nay, số 280, 3 – 2007, tr 13








