Cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Trung Trực(1)
Ngày 17 – 6 – 1868, Đô đốc Ohier quay quân về miền Tây, nghe tin thủ lính nghĩa quân là Quản Chơn đã hạ lệnh tại Sân Chim (Rạch Giá), tấn công thành Rạch Giá. Nhưng đã muộn. Ngay này hôm ấy họ đã thành công, giết viên thanh tra cùng với quân trú phòng ở đây. Họ chiếm lấy thành. Chỉ một lính Pháp trốn thoát (2).
Đến ngày 21, tức ba ngày sau, toán quân Pháp khoảng 60 người, với một hỏa lực hùng hậu, trang bị cả đại pháo tấn công chiếm lại thành. Các chỉ huy và nghĩa quân đã bỏ thành chạy, họ dùng các thuyền nhẹ đến Hòn Chông, sau đó lại chạy ra Phú Quốc (3).
Sau khi tái chiếm thành Rạch Giá, người ta mới biết Quản Chơn không ai khác, đó là vị thủ lĩnh nghĩa quân nổi tiếng Nguyễn Trung Trực, người mà ngày 10 – 12 – 1861 đã hoả táng pháo hạm Espérance ở Nhật Tảo (nằm giữa quảng Bến Lức với giao giang 2 sông Vàm Cỏ), làm chết hết toàn bộ sĩ quan và lính tráng trên tàu (4). Về sau, theo lời khai của ông ấy ở trong tù, ông được triều đình Huế phong làm Quản cơ, vài năm sau hàm chức Thành Thú Huy (Commandant do Poste – chú của P. Klian) ở Hà Tiên và sau loạt chiếm đóng của Pháp ông rút về Hòn Chông cùng gia đình. Phải chăng, ông là một Nho sĩ cuối cùng, và là một võ gia lão luyện.
Nhờ sự hợp tác của Tổng Kiên (5), Chánh tổng Hòn Chông, thoạt đầu có hàng chục nghĩa quân người An nam đến xin gia nhập, những người đó cũng chỉ quanh quẩn ở vùng này. Nhờ họ mà liên lạc được khắp nơi, tiền bạc lương thực có phần dồi dào hơn trước.
Nguyễn Trung Trực thiết lập bản doanh tại bãi Bà Lưu (6), cách chợ Hòn Chông hiện nay khoảng 300m. Đội quân của ông ngày càng phát triển, ông luyện tập võ nghệ cho họ, nhưng cái khiếm khuyết lớn nhất vẫn là vũ khí và quân nhu quân dụng.
Vợ Tổng Kiên khuyên chồng không nên dây vào đám Nguyễn Trung Trực, Tổng Kiên bừng bừng nổi giận, chặt đầu vợ bêu bên đường để thị uy những kẻ do dự (mộ bà được tìm thấy trong khoảng đất gần bên Trụ sở Hòn Chông – chú của P. Klian (7). Sau cuộc hành quyết đó, số nghĩa quân tăng lên nhanh chóng, khoảng ba chục. Trước cuộc tấn công Rạch Giá ít lâu - tức trước ngày 17 – 6 – 1868, một vị quan ở ngoài triều mang lệnh vào, bảo ông phải khởi nghĩa ở Hà Tiên, thoạt đầu Nguyễn Trung Trực còn do dự, nhưng sau đó ông vâng lời nhưng việc lại không xảy ra.

Sau cuộc tấn công Rạch Giá, đa số nghĩa quân tụ tập về Phú Quốc. Nguyễn Trung Trực cũng biết ở Hòn Chông khó yên, bèn dời bản doanh về Phú Quốc. Ngày 19 – 9 – 1868, Lãnh Binh Tấn với 125 lính Tập đi trên tiểu hạm Goeland, xuất phát từ Hà Tiên, đổ bộ vào bãi Hàm Ninh đông bộ Phú Quốc bằng những tiểu thuyền đầy hoả lực. Nghĩa quân có đến ba trăm, hai bên mở trận đấu quyết liệt. Nghĩa quân vì thiếu vũ khí, nên lớp chết, lớp đầu hàng, số còn lại bị dồn vào một chỗ. Lúc này Thủ lĩnh Nguyễn Trung Trực đành buông vũ khí để cứu sống các nghĩa quân và dân chúng. Nguyễn Trung Trực bị đưa về Sài Gòn. Suốt thời gian bị giam giữ, chí khí ông không hề bị suy giảm. Ông là một lãnh tụ có tư cách và đáng khâm phục. Ông thú nhận vì ông quá coi thường sức mạnh của quân đội Pháp. Người ta hỏi ông có cần gì không, có yêu cầu điều khoản gì không, ông ngang nhiêu trả lời, ân huệ cuối cùng của ông xin là, hãy tử hình ông cho sớm! Lãnh binh Tấn có van nài hãy gia ân cho ông Trực, vì ông ta là người có phẩm hạnh, gan dạ và thông minh, nếu được thì từ đây ông ta sẽ cộng tác với Pháp (7). Mặc dù biết rằng tha cho Nguyễn Trung Trực là có lợi cho Pháp, nhưng Đô đốc Ohier lại nghĩ rằng, không thể vô tội hoá cho ông Trực được, bởi vì ông ta đã chà đạp lên quyền sống của con người. Chính ông Trực đã giết những ba mươi người Pháp (8). Ohier ra lệnh – không tình cảm, không thương tiếc, đưa ông Trực về Rạch Giá và ra tòa phán quyết. Ông Trực lãnh án tử hình. Bản án được thi hành công khai vào ngày 27 – 10 – 1868, tại Rạch Giá (9). 






