Cung cầu phân bón và triển vọng bình ổn thị trường trong nước
Nhập khẩu phân bón tăng mạnh trở lại từ tháng 3/2011
Theo số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan, trong tháng 3/2011 nhập khẩu phân bón của Việt Nam tăng mạnh trở lại, đạt 396 nghìn tấn, với kim ngạch 143 triệu USD; tăng mạnh 198,57% về lượng và tăng 147,73% về kim ngạch so với tháng trước; còn so với cùng kỳ năm ngoái cũng tăng 103% về lượng và tăng 133,47% về kim ngạch.
Trong tháng 3/2011, SA vẫn là chủng loại phân bón được nhập khẩu nhiều nhất, tăng 157,86% về lượng và tăng 188,54 về kim ngạch so với tháng trước, đạt 124,41 nghìn tấn với kim ngạch 24,63 triệu USD. Bên cạnh đó, nhập khẩu các chủng loại phân bón khác cũng tăng mạnh. Tăng mạnh nhất là chủng loại NPK, tăng 1.094% về lượng và tăng 957,35% về kim ngạch, đạt 24,84 nghìn tấn với kim ngạch 10,43 triệu USD, tiếp đến là DAP tăng 550,7% về lượng, đạt 61,97 nghìn tấn với kim ngạch là 38,06 triệu USD…
Trong tháng 4/2011, nhập khẩu phân bón đạt 418,12 ngàn tấn trị giá 159 triệu USD, tăng 5,58% về lượng và tăng hơn 11% trị giá so với tháng trước. So với tháng 4/2010, nhập khẩu phân bón đã tăng mạnh tới 143,13% về lượng và 190,96 về trị giá.
Mặt khác, theo thông tin từ Bộ Công Thương sản lượng các loại phân bón trong nước quý I/2011 đã tăng đáng kể, trong đó: phân urê ước đạt 393,6 nghìn tấn, tăng 18,3%, phân lân ước đạt 393,6 nghìn tấn, tăng 2,6%; phân NPK ước đạt 440,9 nghì tấn, tăng 37,9%; phân DAP tăng mạnh nhất với mức tăng 66,3%, đạt khoảng 48,2 nghìn tấn.
Những yếu tố đang đẩy giá phân bón tăng cao
Thời gian qua, giá nguyên liệu đầu vào để sản xuất phân bón như lưu huỳnh, SA, quặng apatit… cùng với giá năng lượng như điện, than… tăng mạnh đã đẩy giá thành phân bón sản xuất trong nước lên cao. Cụ thế giá phân bón tháng 3/2011 đã tăng 10-15% so với tháng trước. Đặc biệt, giá phân bón tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long còn tăng tới 17%. Nếu như giá phân urê Phú Mỹ vào giữa tháng 2 là 9.000 đồng/kg thì đến giữa tháng 3 đã lên 10.500 đồng/kg; phân lân Lâm Thao từ 4.200 đồng/kg tăng lên 4.700 đồng/kg. Các loại phân bón khác như DAP Trung Quốc, NPK pháp cũng đều có mức tăng 1.000 đồng/kg. Những biến động này có ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất và thu nhập của nông dân.
Theo nhận định của các chuyên gia, giá phân bón nội địa có thể sẽ tiếp tục tăng nhẹ trong thời gian tới. Tổng sản lượng phân bón hóa học 4 tháng đầu năm 2011 đạt 871,2 nghìn tấn, tương đương sản lượng cùng kỳ năm 2010 (số liệu ước tính của Tổng cục Thống kê). Nhập khẩu 4 tháng đầu năm 2011 đạt 1.335,45 nghìn tấn tăng 17,64% về lượng so với cùng kỳ năm 2010 (số liệu sơ bộ của Tổng cục Hải quan). Trong khi đó, nếu lấy năm 2005 làm gốc thì có thể thấy, chỉ số tồn kho các sản phẩm phân bón và hợp chất nitơ trong tháng 4/2011 (số liệu của Tổng cục Thống kê). Như vậy, có thể thấy mặc dù nguồn cung phân bón không ở mức căng thẳng nhưng do sức ép về chi phí sản xuất và nhu cầu đang ở mức khá cao nên giá phân bón trên thị trường nội địa sẽ có thể tiếp tục đi lên.
Ngoài yếu tố về chi phí sản xuất trong nước thì thực tế hiện nay cho thấy, việc bình ổn giá phân bón thị trường trong nước là rất khó, nguyên nhân chính do chúng ta đang phải nhập khẩu một lượng lớn mặt hàng này. Trong khi đó, giá phân bón nhập khẩu thời gian qua đã tăng mạnh. Nếu đem so sánh với cùng kỳ năm ngoái, giá nhập khẩu phân urê tháng 4/2011 đã tăng tới 35,88%; NPK tăng 44,47%; DAP tăng 39,38%; còn lại SA, phân kali tăng 36,44% và 10,37%. Giá phân bón trên thị trường thế giới vài tháng qua đang có dấu hiệu phục hồi nhanh và mạnh trở lại, vì vậy giá phân bón nhập khẩu được dự báo có thể sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới.
Hiện nay phân bón sản xuất trong nước mới chỉ đáp ứng 65-70% nhu cầu, ngoài ra cả nước vẫn phải nhập khẩu thêm khoảng 3 triệu tấn. Do đó, giá phân bón trên thị trường trong nước chịu ảnh hưởng nhiều của các biến động trên thị trường thế giới. Hơn nữa, nguyên liệu sản xuất phân bón phụ thuộc vào thị trường dầu khí, khi giá dầu mỏ trên thế giới đang trong xu hướng tăng như hiện nay thì giá phân bón cũng tăng theo.
Triển vọng bình ổn thị trường nhờ tăng năng lực sản xuất trong nước
Phân bón là một trong những mặt hàng thuộc danh mục bình ổn giá, cần phải thực hiện những biện pháp do Nhà nước áp dụng khi giá cả biến động bất thường. Tuy nhiên, do iệc quản lý, điều hành giá, triển khai các biện pháp bình ổn còn yếu kém nên thời gian qua thị trường phân bón vẫn còn nhiều biến động. Bên cạnh đó, mạng lưới cung ứng phân bón đến tay nông dân còn chồng chéo, hiện tượng liên minh độc quyền, cạnh tranh không lành mạnh, hàng giả… vẫn tồn tại thường xuyên, ảnh hưởng bất lợi đến lợi ích của người nông dân.
Theo Bộ Công Thương, trong thời gian này, các cơ quan chức năng đang hoàn tất những quy định về việc yêu cầu các doanh nghiệp nhập khẩu, sản xuất phân bón phải duy trì một lượng hàng dự trữ bắt buộc nhằm bình ổn thị trường phaanbons. Chỉ có như vậy mới có thể đối phó được với tình trạng phân bón tăng giá khi nguồn cung thiếu hụt mỗi khi vào mùa vụ. Các doanh nghiệp dự trữ mặt hàng này sẽ được nhận hỗ trợ từ Nhà nước thông qua các ưu đãi về tín dụng, thuế, đầu tư kho bãi, tiếp cận nguồn cung ngoại tệ, đồng thời các doanh nghiệp phải tăng cường năng lực hệ thống phân phối để bảo đảm sản xuất và lưu thông thông suốt, nhất là mạng lưới phân phối trực tiếp cho nông dân, nhằm tăng cường kiểm soát giá bán, hạn chế trung gian.
![]() |
Riêng đối với loại phân bón quan trọng nhất là urê, cung cầu phân urê trong vụ hè thu sắp tới sẽ cân bằng ở mức 600.000 tấn, tuy nhiên với giá nhập khẩu bình quân 9.200-9.500 đồng/kg thì giá phân urê đến tay nông dân sẽ vào khoảng 9.500-10.000 đồng/kg.
Nhu cầu đạm urê cho sản xuất nông nghiệp cả nước hiện nay khoảng 2-2,2 triệu tấn/năm, nhưng nước ta chỉ mới có 2 nhà máy sản xuất phân đạm là Đạm Hà Bắc có công suất 180.000 tấn /năm, nhà máy Đạm Phú Mỹ có công suất ban đầu 740.000 tấn/năm, từ quý IV/2010 đã mở rộng lên 800.000 tấn/năm. Như vậy, nguồn cung chỉ có 980.000 tấn/năm, đáp ứng khoảng 45% nhu cầu trong nước, phần còn lại vẫn đang phụ thuộc vào nhập khẩu.
Tuy nhiên, trong thời gian sắp tới trên thị trường phân bón trong nước sẽ diễn ra nhiều thay đổi quan trọng: Tháng 11/2011, sản phẩm phân đạm của nhà máy Đạm Ninh Bình công suất 560.000 tấn/năm thuộc Tập đoàn Hóa chất Việt Nam sẽ được bàn giao cho chủ đầu tư. Tiếp đó là nhà máy Đạm Cà Mau công suất 800.000 tấn/năm thuộc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam cũng dự kiến sẽ hoàn thành vào cuối năm nay. Ngoài ra, nhà máy Đạm Công Thanh (Thanh Hóa) công suất 560.000 tấn/năm dự kiến sẽ động thổ vào cuối năm nay; chương trình nâng công suất nhà máy Đạm Hà Bắc lên 500.000 tấn/năm sẽ hoàn thành vào năm 2014.
Như vậy, trong năm 2012 tới các dự án sản xuất phân urê ở Ninh Bình và Cà Mau sẽ đi vào hoạt động, khi đó sẽ đáp ứng đủ nhu cầu trong nước, góp phần bình ổn thị trường về chất lượng, số lượng và giá cả.
Trong giai đoạn 2012-2014 sản lượng phân đạm urê sẽ tiếp tục tăng mạnh, từ năm 2015 có thể đạt 3,2 triệu tấn urê/năm, gấp gần 3,3 lần so với hiện nay. Do đó, từ năm 2015 thị phần phân đạm trong nước sẽ só những thay đổi lớn khi các nhà sản xuất cũng như nhập khẩu phân đạm vào cuộc giành thị phần.
Nhận thấy xu hướng này, đã có doanh nghiệp sản xuất phân bón bắt đầu mở rộng thị trường xuất khẩu phân urê và bán sản phẩn ra ngoài ngành nông nghiệp. Trong cuộc đua này, lợi thế sẽ thuộc về các đơn vị đã có bề dày sản xuất và nhà máy vào giai đoạn hết khấu hao vốn cố định.
Theo các chuyên gia, khi phân đạm urê đã bước vào thời điểm bão hòa, các nhà máy phân bón nên có xu hướng chuyển dịch đầu tư sang nhà máy sản xuất SA, DAP và đẩy nhanh tiến độ các dự án khai thác và chế biến muối mỏ tại Lào để có phân kali cung cấp cho thị trường. Hiện phân SA và kali vẫn phải nhập hoàn toàn, mỗi loại khoảng 700-800.000 tấn/năm. Phân DAP cũng mới chỉ có một nhà máy DAP số 1 tại Hải Phòng sản xuất với công suất 330.000 tấn/năm, đang xúc tiến xây dựng nhà máy thứ hai công suất tương đương tại Lào Cai. Nhưng mỗi năm nước ta vẫn phải nhập khoảng 700.000 tấn DAP và nhu cầu DAP cũng đang tăng lên.
Việt Nam có đủ điều kiện về tài nguyên apatit và cơ sở vật chất để phát triển các dự án sản xuất amoniăc, cung cấp nguyên liệu cho nhà máy sản xuất phân đạm. Do vậy, thời gian tới việc nghiên cứu tăng năng lực sản xuất DAP trong nước là hợp lý, đặc biệt nên khuyến khích sử dụng quặng apatit loại 2 để sản xuất DAP. Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu này cần đầu tư thêm nhà máy tuyển quặng apatit công suất 800.000-1.000.000 tấn tinh quặng/năm và đầu tư nhà máy sản xuất amoniăc từ than hoặc khí thiên nhiên./.









