Công nghệ mới chế tạo rôbốt dưới nước sử dụng năng lượng mặt trời
Arthur C. Sanderson, Giáo sư về điện tử, máy tính và kỹ thuật hệ thống tại Viện Polytechnic Renselaer, là người trình diễn công nghệ chế tạo rôbốt này. Công nghệ này được một đội gồm các nhóm nghiên cứu, trong đó có Viện Rensselaer, tham gia chế tạo.
Với vai trò là nhà nghiên cứu chính của dự án được NSF tài trợ có tên là RiverNet, Sanderson đang phối hợp với những nhà nghiên cứu khác để phát triển một hệ thống các thiết bị cảm ứng có trật tự và các rôbốt giám sát dưới nước, bao gồm cả những chiếc xe lội nước tự động sử dụng năng lượng mặt trời đầu tiên có tên viết tắt là SAUVs. Ông cho biết, một khi được hoàn thiện, công nghệ rôbôt dưới nước này sẽ cho phép quan sát và giám sát các hệ thống dưới nước phức tạp tốt hơn và sẽ hỗ trợ cho những tiến bộ của khoa học môi trường cơ bản cũng như các ứng dụng về quản lý môi trường và các chương trình an ninh quốc phòng.
Công nghệ SAUV cho phép khai thác các rôbốt dưới nước lâu dài qua việc sử dụng năng lượng mặt trời. Các cỗ xe lội nước tự động thông thường hiện nay đang sử dụng được trang bị những thiết bị cảm ứng để giám sát nước cần phải lấy ra khỏi nước thường xuyên để xạc lại ắc quy. Khai thác lâu dài các SAUV cũng sẽ cho phép phát hiện ra những chiều hướng nồng độ hóa chất và sinh học ở các hồ, sông và luồng nước, việc này sẽ góp phần hướng dẫn các phương pháp quản lý và cải thiện chất lượng nước.
Theo Sanderson, SAUV giao tiếp và liên kết với nhau theo thời gian thực tại để đánh giá chất lượng một khối lượng nước qua việc đo xem khối lượng nước này có thay đổi theo thời gian và không gian không. Các công nghệ chủ yếu được sử dụng trong các SAUV gồm các vi hệ cảm ứng tích hợp, tính năng tính toán lan tỏa, các thiết bị truyền thông không dây và công nghệ cảm ứng lưu động với ngành rôbốt học. Ông lưu ý, các cỗ xe lội nước tự động sử dụng năng lượng mặt trời cũng đang thu hút được sự chú ý của Hải quân Mỹ, cơ quan này đánh giá cao việc sử dụng chúng trong các ứng dụng giám sát bờ biển.
SAUV nặng có 370 pound (khoảng hơn 100 kg), di chuyển với tốc độ lên tới 2 dăm một giờ và được thiết kế để lặn sâu tới 500 mét.
Sanderson và các đồng nghiệp sẽ tiếp tục thử nghiệm những cỗ xe này trong những tháng tới để xác định các khả năng liên lạc, tương tác và chuyển động của chúng bằng cách thử nghiệm các mức nồng độ ôxy, một trong những chỉ số quan trọng nhất của chất lượng nước đối với đời sống thủy sinh.
Nguồn: Renselaer Polytechnic Institute News,6/9/2005








