Cơ chế tác động của thuốc lợi tiểu
Trong giai đoạn đầu, hiệu năng hạ huyết áp của thuốc lợi tiểu gắn liền với giảm thể tích máu kéo theo giảm áp huyết.
Trong giai đoạn kế có tác động trực tiếp tại mạch, không dính dáng gì với hiện tượng bài xuất natri niệu: gần toàn phần (95%) thể tích huyết tương mất đi lúc đầu được phục hồi, hiệu năng tại mạch của thuốc lợi tiểu chiếm ưu thế, kéo dài tình trạng bình thường hoá mức độ huyết áp.
Các vị trí chính yếu tác động của thuốc lợi tiểu trên nêphron (hình 2).
- Vị trí 1:Nhánh lên của quai Henlé:Lợi tiểu ở quai: Furosémide: Laxix, Lasilix, Diuréfar;Bumétanide : Burinex, Eurilix.
- Vị trí 2: Đoạn pha loãng của ống lượn nằm ở vỏ thận:Lợi tiểu thiazidic: Hydrochlorothiazide: Esidrex;Xipamide: Lumitens.
- Vị trí 3:Cuối ống lượn xa và đầu ống góp:Lợi tiểu tăng kali huyết: Spironnolactone : Aldactone, Flumach, Practon, Spironone, Spiroctan, Soludactone;Amiloride : Modamide, Moduretic;Triamtérène: Isobar, Prestole.
Hiện nay các tác giả đều công nhận hiệu năng ở mạch của thuốc lợi tiểu do nhiều hiện tượng: giảm natri ở thành động mạch và tiểu động mạch, kích thích prostaglandin giãn mạch, thay đổi luồng calci xuyên màng, kết quả là giảm lực cản ngoại biên ghi được ở lâm sàng, sau giảm thể tích máu khởi đầu. Do đó có trường phái cho là thuốc không thể thiếu trong phác đồ điều trị cao huyết áp.
Nguồn: Thuốc & Sức khoẻ, số 296 (15/11/2005), tr 21