Chứng khí thoát trong Đông y
Sách Phụ nhân quy viết: “Sau khi sinh, khí huyết đều tổn thất, bỗng nhiên hoa mắt tối xầm, hôn mê cấm khẩu, bất tỉnh nhân sự, cổ nhân cho là ác lộ, nhân chỗ hư yếu mà xông lên, gây ra huyết vựng, hai là khí thoát. Nếu lấy khí thoát xem là huyết vựng mà dùng các bài thuốc cay, thơm để trục huyết, hóa đàm thì bệnh nhân lập tức tử vong cho nên không thể không cẩn trọng trong chẩn đoán”.
1 - Nguyên nhân bệnh:
Chứng khí thoát là chỉ chứng chính khí của cơ thể suy yếu, nguyên khí sút kém, khí theo huyết ra ngoài cơ thể, âm dương chia lìa, xã hội những chứng nguy cấp, phần nhiều do ngoại cảm, nội thương, hoặc do ốm lâu ngày không khỏi bệnh, là do chính khí không thắng được tà khí, hoặc do chấn thương bị mất nhiều máu, hoặc sau khi sinh bị mất nhiều huyết làm cho khí thoát. Bệnh tình xuất hiện đột ngột, triệu chứng nguy cấp, khi gặp chứng khí thoát phải được cấp cứu kịp thời nếu không bệnh nhân sẽ tử vong trong giây lát.
Chứng khí thoát thường gặp trong chứng hôn mê, chiến hãn, băng lậu, trúng phong, sản hậu huyết vựng.
2 - Triệu chứng lâm sàng
Bỗng dưng mồ hôi vã ra đầm đìa, tinh thần mệt mỏi, ủy mị, hai mắt nhắm, miệng há hốc, mặt tái xanh, khí đoản, không đủ hơi để thở, đại tiện, tiểu tiện không tự chủ được, chất lưỡi nhạt, bệu, mạch tế vi nhược khâu đại, cần phân biệt rõ giữa hai chứng khí thoát với chứng vong âm, chứng vong dương, chứng khí quyết…
3 - Biện chứng:
Do nguyên nhân dẫn đến chứng khí thoát khác nhau, do đó biểu hiện trên lâm sàng cũng không giống nhau, chứng khí thoát dẫn đến hôn mê phần nhiều do ngoại cảm nhiệt chứng, tà hãm hun đốt mà gây ra, cũng có thể do trúng phong sinh ra thoát chứng mà dẫn đến khí thoát.
Chứng băng huyết của phụ nữ dẫn đến chứng khí thoát phần nhiều do mệt nhọc quá độ, tỳ vị hư yếu (khí của tỳ vị tổn thương quá mức) dẫn đến nguyên khí hư, khí không nhiếp được huyết, xung nhâm không bền kỳ kinh kéo dài, lượng huyết ra nhiều đến mức không cầm được mà sinh ra chứng xây xẩm, mặt mũi trắng nhợt, tinh thần bạc nhược, mạch vi tế.
Cũng có trường hợp sau khi sinh do huyết ra quá nhiều làm cho khí thoát ra theo huyết, nguyên khí bị hao tổn xung nhâm rỗng không. Hoặc sau khi sinh mắc chứng ác lộ dai dẳng, phần nhiều do sản phụ sinh quá nhiều lần, đẻ dày, dẫn đến chứng khí thoát, bệnh nhân thường tay chân lạnh, mặt trắng nhợt, da bủng, đoản hơi, mạch hư đại mà khâu.
Cũng có trường hợp do khí thoát mà dẫn đến mù, bởi vì khí thoát thì mắt nhìn không rõ. Trường hợp này là do tinh khí của năm tạng bị suy kiệt, không đủ dinh dưỡng (tinh) đế đưa lên nuôi dưỡng mắt, cho nên mắt khô, nhìn không rõ, có trường hợp đồng tử giãn to.
Đối với trẻ em do tiên phiên phú bẩm không đầy đủ khi sinh ra nguyên khí đã hao tổn, thể trạng hư yếu nên ngoại tà dễ xâm nhập vào, sinh ra chứng sốt cao đột ngột, cánh mũi phập phồng, ra mồ hôi, thở gấp, có trường hợp hạ lỵ không dứt, tinh thần mệt mỏi đoản hơi đó là biểu hiện của chứng khí thoát.
Chứng khí thoát thường có quan hệ chặt chẽ với ba tạng phế, tỳ, thận phần nhiều do phế và tỳ khí hư, đột ngột ra nhiều mồ hôi mà xã hội chứng khí thoát, cũng có trường hợp do tỳ thận khí hư bỗng dưng hạ lợi không dứt mà thành chứng khí thoát. Ra mồ hôi là do vệ khí không bền, tấu lý không kín, mồ hôi ra nhiều thì tổn hại đến dương khí, dương khí ra nhiều thì dễ mắc chứng vong dương.
Ngoài ra mồ hôi là do tân dịch biến hóa mà thành, do khí hư không bền mồ hôi ra không dứt, tân dịch bị tiết ra quá nhiều làm cho khí thoát ra ngoài dẫn đến mắc chứng vong âm. Nếu hạ lợi quá mức cũng có thể hao khí, thoát dịch. Khi điều trị cần chú ý đến chứng khí thoát, khi nguyên khí được hồi phục lúc đó mới điều trị nguyên nhân bệnh. Nếu để xuất hiện chứng khí thoát lần nữa thì bệnh nhân dẫn đến tử vong.
4. Phân biệt chẩn đoán
Cần phân biệt giữa hai chứng vong âm và chứng khí thoát, cả hai chứng đều thuộc chứng thoát, mồ hôi ra đầm đìa xuất hiện các triệu chứng nguy cấp, chứng vong âm thường do nhiệt hãm ở bên trong, chân âm bị hun đốt, mà ra nhiều mồ hôi, làm cho âm dịch bị hao kiệt, âm không chế được dương, âm dương bị chia lìa dẫn đến thần trí hôn mê, mồ hôi ra như dầu, do hỏa bốc lên hai gò má đỏ, họng khô, lưỡi đỏ, rêu lưỡi bong ra từng mảng, mạch hư tế đới sác.
Chứng khí thoát thì mồ hôi ra như tắm, làm cho tân dịch hao tổn đến khí hư mà thoát, làm cho tinh thần ủy mị, do đó chứng khí thoát là tiền đề của chứng vong âm đó là những triệu chứng chính để phân biệt chẩn đoán giữa hai chứng.
- Phân biệt chẩn đoán giữa chứng vong dương với chứng khí thoát:
Cả hai chứng đều thuộc loại nguy cấp. Đều có mồ hôi ra đầm đìa. Nhưng chứng vong dương đa phần do chân dương suy, hoặc ra mồ hôi quá nhiều, đại tiện như nước không ngừng, làm cho dương khí càng suy kiệt, dương không hợp được với âm, dẫn đến âm dương chia lìa, làm cho bệnh nhân hôn mê, bất tỉnh nhân sự, cơ thể lạnh, mắt nhắm miệng há, đại tiện, tiểu tiện không tự chủ được, hơi thở yếu, chất lưỡi nhạt, mạch vi tế muốn tuyệt. Đối với chứng khí thoát thì chủ yếu là vã mồ hôi, tinh thần mệt mỏi vật vã, như vậy nội dung của chứng khí thoát là tiền đề của chứng vong dương.
- Phân biệt giữa chứng khí quyết với chứng khí thoát:
Cả hai chứng đều nguy cấp, phần nhiều do biến hóa của chứng khí. Đối với chứng khí quyết do tổn thương vì thất tình, tức giận, sợ hãi dẫn đến can uất làm tắc nghẽn vùng ngực, khí nghịch lên làm rối loạn thần minh, bệnh nhân hôn mê ngã vật ra bất tỉnh nhân sự, chân tay quyết lạnh, co giật. Còn chứng khí thoát là do nguyên khí bất túc, khí không nhiếp, biểu không cố cho nên xuất hiện chứng ra mồ hôi, tinh thần bải hoải có khi nguy khốn. Như vậy, chứng khí quyết là thực chứng khí thoát ra là hư chứng, đó là những lý do để phân biệt chẩn đoán giữa hai chứng.
5. Phương pháp điều trị:
5.1. Chứng khí thoát:
Nguyên nhân bệnh:Phần lớn do ngoại cảm chưa khỏi, tà nhiệt còn ẩn nấp bên trong làm tổn thương tân dịch, điều trị lại dùng phép hãn, phép hạ dẫn đến nguy cấp.
Triệu chứng lâm sàng:Mồ hôi ra nhiều, tinh thần mệt mỏi, khí đoản, hơi thở ngắn, chân tay lạnh, lưỡi đỏ tía ít rêu, mạch khí hư yếu…
Phương pháp điều trị:ích khí cố thoát, sinh tân dẹp phong.
Bài thuốc thường dùng:Đại định phong châu.
Bạch thược 12g
A giao 12g
Sinh địa 12g
Ma nhân 8g
Mạch môn 12g
Ngũ vị tử 8g
Quy bản 16g
Miết giáp 12g
Kê tử hoàng 12 quả.
Ngày một thang sắc uống, tùy chứng có thể gia giảm cho phù hợp.
Nếu do thận hư, nguyên khí bất túc, ốm lâu ngày thì dùng bài Độc sâm để điều trị.
5.2. Do chiến hãn (rét run) sinh ra chứng thoát:
Nguyên nhân bệnh:Do ôn tà vẫn lưu luyến ở khí phận chưa vào phần doanh, chính khí thịnh, nhưng tà khí chưa lui phải thông qua “chiến hãn” để đẩy tà khí ra ngoài.
Triệu chứng lâm sàng:Toàn thân rét run, mồ hôi toát ra nhiều, chân tay lạnh nhưng tinh thần tỉnh táo mạch hư hoãn.
Phương pháp điều trị:Cứu thoát, ích khí, dưỡng tân.
Bài thuốc thường dùng:Sinh mạch tán.
Nhân sâm 16g Mạch môn 8g
Ngũ vị tử 12g
Tùy chứng có thể gia giảm cho thích hợp, ngày uống một thang, chia 3 lần uống lúc đói, khi thuốc còn ấm.
5.3. Chứng khí thoát do trúng phong:
Nguyên nhân bệnh:Trúng phong không phải do phong tà từ bên ngoài, mà là do bệnh khí từ bên trong, người ta thường khí hư, khi đã ngoài 40 tuổi, do tức giận, hoặc mừng vui quá mức làm tổn thương khí, dẫn đến can thận bất túc hư phong nội động mà sinh ra bệnh.
Triệu chứng lâm sàng:Bệnh nhân tự nhiên ngã vật ra mặt tái nhợt, tay chân lạnh, đại tiện, tiểu tiện không tự chủ, miệng méo xệch, bán thân bất toại, nói ngọng, mạch tế vi.
Phương pháp điều trị:Ích khí cứu thoát.
Bài thuốc thường dùng:Sâm phu thang
Nhân sâm 20g Phụ tử (chế) 20g
Sinh khương 10 lát Đại táo 5 quả
Tùy chứng và thể trạng bệnh nhân mà dùng lượng và gia giảm cho phù hợp. Ngày uống 1 thang sắc 3 lần uống 3 lần trong ngày.