Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ ba, 20/12/2011 20:42 (GMT+7)

Chuẩn tinh thể giải Nobel Hóa học 2011

Giải Nobel Hóa học năm 2011 được trao cho Daniel Shechtman người Israel về khám phá ra chuẩn tinh thể.

Đây là giải Nobel về Hóa nhưng về nội dung khó phân biệt là Hóa hay Lý. Điều đặc biệt là kết quả nghiên cứu của Shechtman đưa đến giải Nobel này đã làm đảo lộn chân lý được đưa vào sách giáo khoa, dẫn đến những ứng dụng rất cao cấp và cả ở đời thường.

1. Điều cho phép và điều cấm kỵ ở tinh thể học

Tinh thể học là môn khoa học chung cho cả Hóa và cả Lý, được các nhà khoáng vật học và địa chất sử dụng rất rộng rãi. Do ban đầu nhìn bề ngoài của nhiều tinh tể tự nhiên như thạch anh, muối, canxit... có hình dạng rất cân xứng, góc cạnh rõ ràng và các góc đo được rất nhất định người ta giả thiết là tinh thể như được cấu thành từ những viên gạch con hình hộp (nói chung là xiên) sắp xếp trật tự, khít nhau. Về sau khi đã biết được nguyên tử, phân tử, lại được tia X soi sáng, các nhà khoa học trên toàn thế giới đã thống nhất định nghĩa tinh thể: “là chất do các nguyên tử, phân tử hay ion tạo thành sắp xếp theo trật tự điều hòa, lặp lại theo cả ba chiều”. (hình 1)

Trật tự lặp lại theo cả ba chiều tức là trật tự tuần hoàn được biểu diễn hình học bằng một mạng lưới không gian, cả mạng lưới vô tận xem như từ một hình hộp gọi là ô mạng cơ bản tịnh tiến cả ba chiều theo phương của cạnh hình hộp với chu kỳ tịnh tiến là chiều dài của cạnh hình hộp.

Với định nghĩa tinh thể theo cách toán học chặt chẽ như vậy, cũng bằng chứng minh toán học người ta đã tìm được nhiều quy luật của chất có cấu trúc tinh thể. Quy luật mà sách giáo khoa về tinh thể học nào cũng nói ở các chương đầu là tinh thể chỉ có thể có các trục đối xứng bậc 1, bậc 2, bậc 3, bậc 4 và bậc 6. Nói rằng tinh thể có trục đối xứng bậc n nghĩa là quay tinh thể quanh trục đó một góc 360o/n tinh thể sẽ trùng với chính nó. Vậy là đối quay đối xứng quanh trục với các góc là 360o (không quay), 180o, 120o, 90o và 30o. Ngoài 5 trục đối xứng ấy ra, không thể có trục đối xứng đối xứng nào khác. Thí dụ nói rằng tinh thể có trục đối xứng bậc 5 hoặc bậc 7... là nói sai, nói ngược với sách giáo khoa. (hình 2)

Tinh thể học có một cơ sở toán học rất vững chắc nhưng cũng có các phương tiện thực nghiệm rất hữu hiệu để kiểm tra trực tiếp. Vì các nguyên tử rất nhỏ đồng thời nắm rất khít nhau cấu thành tinh thể nên với mắt thường, ngay cả dùng những kính hiển vi hiện đại cũng không thể thấy được bên trong tinh thể các nguyên tử sắp xếp thế nào. Nhưng từ khi phát hiện ra tia X, đã hơn 100 năm nay, người ta đã biết cách chiếu tia X vào tinh thể quan sát hình ảnh nhiễu xạ tia X do tinh thể gây ra để gián tiếp thấy được cách sắp xếp các nguyên tử trong tinh thể. Đó là vì tia X là sóng điện từ có bước sóng rất ngắn, nhỏ hơn khoảng cách giữa các nguyên tử trong tinh thể, còn tinh thể gồm các nguyên tử sắp xếp đều đặn như một mạng lưới trong không gian, tia X chiếu vào tinh thể làm cho các nguyên tử trong tinh thể là các trung tâm tán xạ tia X theo mọi phương. Sự giao thoa của tia X từ các nguyên tử sắp xếp tuần hoàn cho ảnh nhiễu xạ là các chấm sáng nằm cách xa nhau hàng triệu lần so với khoảng cách giữa các nguyên tử nên mắt thường nhìn thấy được. Qua ảnh nhiễu xạ có thể phân tích để biết các nguyên tử sắp xếp tuần hoàn như thế nào.

Khi cần nghiên cứu tỉ mỉ, người ta có thể làm mỏng mẫu nghiên cứu để đưa vào kính hiển vi điện tử. Chùm điện tử cũng là chùm sóng có bước sóng cực ngán nên chiếu vào mẫu tinh thể mỏng (để tia điện tử xuyên qua được) cũng tạo ra ảnh nhiễu xạ gọi là nhiễu xạ điện tử. Ưu điểm của nhiễu xạ điện tử là ảnh rất rõ nét, nhìnt hấy ngay được còn ảnh nhiễu xạ tia X phải chụp lâu mới có ảnh để thấy. Ở kính hiển vi điện tử có hai chế độ: xem ảnh nhiễu xạ điện tử có thể biết ngay đối xứng của tinh thể và xem ảnh hiển vi để thấy nhiều chi tiết bên trong mẫu.

2. Người phát hiện ra điều cấm kỵ lại tồn tại trong thực tế

Daniel Shechtman sinh năm 1941, người Do Thái. Ông là tiến sĩ về Khoa học Vật liệu ở Đại học Technion năm 1972, có cộng tác nghiên cứu và giảng dạy với một số Viện nghiên cứu và trường Đại học ở Mỹ. Trong thời gian từ 1981 đến 1983 ông đi nghiên cứu ở Đại học Johns Hopkins ở Mỹ, ở đấy ông nghiên cứu về hợp kim nguội nhanh của Al (nhom) và một số kim loại chuyển tiếp. Khi nghiên cứu cụ thể về hợp kim Al và Mg (mangan), đưa mẫu vào kính hiển vi điện tử, ông có được một ảnh nhiễu xạ điện tử là các chấm sáng rất rõ nét (hình 3) chứng tỏ mẫu nghiên cứu đúng là có cấu trúc tinh thể điển hình. Nhưng khi đếm các chấm sáng nằm theo các đường tròn quanh tâm, ông thấy có nhiều vòng có 10 chấm sáng đều, phân tích theo sách giáo khoa kinh điển thì tinh thể cho ảnh nhiễu xạ này phải có trục đối xứng bậc 5 – Đó là điều tuyệt đối cấm kỵ.

Shechtman chạy vội ra hành lang đến các phòng thí nghiệm lân cận nhằm hỏi han chia sẻ với đồng nghiệp về điều quan sát được trái hẳn với kiến thức ở sách giáo khoa này. Song vào lúc đó không có ai. Shechtman quay lại phòng thí nghiệm của mình làm lại thí nghiệm tiến hành những phép đo quan sát mới nhưng mọi kết quả đều cho thấy là tinh thể chế tạo ra có trục đối xứng bậc 5.

Khi Shechtman nói với các nhà khoa học khác về kết quả thí nghiệm tinh thể có đối xứng bậc 5 của mình, ai cũng chống lại, thậm chí có người còn chế diễu. Nhiều người nói rằng họ cũng đã quan sát thấy có những ảnh nhiễu xạ như thế đối với mẫu nghiên cứu của mình nhưng đó là do tinh thể mọc sánh đôi (twin crystal) chứ không phải là có đối xứng bậc 5. Shechtman cũng đã đào sâu lại sách giáo khoa, cũng đã suy ngẫm về khả năng tinh thể mọc sánh đôi, đã tìm hết cách để giải thích kết quả thí nghiệm theo sách giáo khoa nhưng cuối cùng ông thấy chỉ có giải thích tinh thể ông chế tạo ra có trục đối xứng bậc 5 là đúng. Ông viết một bài báo công bố ảnh nhiễu xạ điện tử mình đã chụp được và kết luận là có tinh thể có trục đối xứng bậc 5 gửi đăng ở tạp chí Journal of Applied Physics (Tạp chí Vật lý ứng dụng) vào mùa hè năm 1984. Lập tức tòa soạn chối từ không đăng bài báo mà tòa soạn cho là có kết luận phi lý này.

Shechtman không nản lòng, tiếp tục suy nghĩ và nhờ nhà vật lý kim loại tên tuổi người Mỹ là John Cahn tìm hiểu kiểm tra những kết quả nghiên cứu của mình. Nhà vật lý này lại thận trọng nhờ thêm những nhà tinh thể học tên tuổi người Pháp xem xét thật kỹ. Cuối cùng những nhà khoa học tên tuổi này cùng đứng tên với Shechtman công bố bài báo về tinh thể có đối xứng bậc 5 gửi đến tạp chí Physical Review Letters, tạp chí này đã đăng vào số tháng 11 năm 1984.

Bài báo như là một quả bom nổ làm chấn động các nhà khoa học. Có đúng là có tinh thể có trục đối xứng bậc 5 hay không? Nếu không thì tại sao những nhà khoa học có tên tuổi lại đứng tên vào cùng với nhà khoa học chưa có tên tuổi như Shechtman để công bố bài báo ở một tạp chí vật lý rất nổi tiếng? Nếu đúng thì phải chăng cơ sở của tinh thể học bị lung lay? Làm thế nào mà tinh thể lại không có cấu trúc lặp lại tuần hoàn? Nếu có cấu trúc tuần hoàn thì tại sao có đối xứng bậc 5? Đó là do một chân lý đã thấm sâu vào mọi người là: Phi tuần hoàn bất thành tinh thể, đã là tinh thể mà có đối xứng bậc 5 là điều tuyệt đối cấm kỵ.

3. Hỗ trợ để tìm chân lý

Người ta thường nó có bệnh thì vái tứ phương. Ở đây Shechtman không phải có bệnh tật gì nhưng đã làm một điều phạm húy: ảnh nhiễu xạ của vật liệu mình chế tạo đúng là ảnh nhiễu xạ của tinh thể, nhưng tinh thể đó lại vi phạm điều cấm: có trục đối xứng bậc 5.

Bản thân Shechtman sau khi công bố bài báo cũng không lý giải được tinh thể mà mình tìm ra có cấu trúc, tức là cách sắp xếp các nguyên tử như thế nào mà lại có đối xứng bậc 5.

Những người không ủng hộ Shechtman đứng ngoài chê bai, vạch ra những điều phi lý cũng nhiều, nhưng những người ủng hộ, cho đây là một phát hiện rất mới cũng không phải là ít. Những người này cho rằng, nếu xét trên mặt phẳng thì hình ảnh vốn có lâu nay của tinh thể là lát những viên gạch giống nhau sao cho lấp đầy mặt phẳng mà không có chỗ trống, kẽ hở. Tất nhiên cách lát này luôn dẫn đến mặt lát có tính tuần hoàn, có được bề mặt cân xứng, đẹp đẽ nhưng không tuần hoàn?

Người ta liên hệ đến bài toán lát gạch hoa mà những nhà toán học ra chơi cho vui để thách thức tìm lời giải hay vào đầu những năm 1960. Nội dung đề bài toán là: làm thế nào để dùng một số nhất định kiểu cách hình dạng gạch hoa để lát thành một mặt, không có chỗ nào hở, không có tính chất lặp lại tức là không có trật tự tuần hoàn. Bài toán đã ra hơn 10 năm, giới toán học tham gia sôi nổi nhưng không ai đưa ra được bài giải gẫy gọn, chấp nhận được.

Thậm chí có đáp án đưa ra là phải dùng đến 20.000 viên gạch khác nhau.

Mãi đến giữa những năm 1970 giáo sư toán học người Anh nổi tiếng Roger Penrose, tính toán rất sáng tạo đưa ra một số đáp án chặt chẽ mà đơn giản ai cũng phải công nhận là hay nhất. Từ đấy nổi tiếng về cách lát gạch hoa Penrose. Đáp án đơn giản nhất của Penrose là chỉ dùng hai loại gạch hoa hình thoi chiều dài các cạnh như nhau nhưng một là hình thoi béo, một là hình thoi gầy, mặt lát gạch hoa theo kiểu này vẽ ở hình 4.

Cách lát gạch hoa của Penrose đã làm sôi động giới khoa học theo nhiều cách. Các nhà kiến trúc phát hiện rằng từ thời trung cổ, đã có nhà thờ đạo Hồi trang trí theo kiểu lát gạch hoa Penrose, ở thế kỷ XIII đã có những nghệ sĩ Arập lát những hình trang trí đối xứng trật tự nhưng không tuần hoàn với chỉ có 5 loại gạch hoa khác nhau v.v.

Nhưng nhà tinh thể học Alan Mackay sau khi biết đến công bố của Shechtman lại suy nghĩ về cách lát gạch hoa Penrose một cách độc đáo, rất tinh thể học. Ông thử đặt các chấm tròn tượng trưng cho nguyên tử vào các chỗ có giao nhau ở cách lát gạch hoa Penrose để có được một cách sắp xếp các nguyên tử có trật tự nhưng không tuần hoàn. Điều kỳ lạ là ông tính toán hình ảnh nhiễu xạ của mô hình mặt nguyên tử này thì thấy ảnh nhiễu xạ là những chấm tròn quanh tâm y như là ở ảnh nhiễu xạ điện tử mà Shechtman công bố.

Liên hệ giữa cách lát gạch hoa Penrose với ảnh nhiễu xạ điện tử có đối xứng bậc 5 do Mackay phát hiện đã làm cho hai nhà vật lý là Paul Steinhardt và Dov Levine như là giải thoát được những điều khó hiểu ở kết quả đã công bố của Shechtman. Khi bài báo của Shechtman đang còn ở tòa soạn hai ông này đã được xem vì là những người phản biện. Hai ông đã thấy là bài báo quá hay, quá mới nhưng cũng giống như Shechtman chưa thể hình dung được các nguyên tử sắp xếp theo trật tự kiểu gì mà lại cho ảnh nhiễu xạ có đối xứng bậc 5.

Biết được những ý tưởng của Mackay, hai ông lập tức viết một bài báo nội dung chính là mô hình sắp xếp các nguyên tử theo kiểu lát gạch hoa đối xứng nhưng không tuần hoàn của Penrose mà Mackay đưa ra chính là cách sắp xếp thực sự của các nguyên tử trong mẫu nghiên cứu của Shechtman. Đó không phải là tinh thể như lâu nay vãn quan niệm mà chỉ gần như là tinh thể mà thôi. Danh từ quasicrystal – chuẩn tinh thể ra đời trong bài báo này, bài báo được công bố vào ngày trước giáng sinh của năm 1984, nghĩa là chỉ 5 tuần sau khi bài báo của Shechtman được công bố.

Từ đây công trình của Shechtman về vật liệu chuẩn tinh thể dã có một chỗ đứng vững chãi trong khoa học.

Khi phát hiện ra chuẩn tinh thể và cách lát gạch hoa không tuần hoàn có liên hệ mật thiết với nhau người ta lại ngạc nhiên hơn nữa là cả hai đều hàm chứa một tỉ số vàng ở dãy Fibonacci.

Fibonacci là một nhà toán học người Ý ở thế kỷ XIII. Tương truyền rằng ông đã lý tưởng hóa một đôi thỏ đực và cái, xem như chúng không bao giờ chết đã sinh sản ra con đàn cháu đống như thế nào. Cứ một đôi thỏ mới sinh, một đực một cái được thả trên đồng cỏ sau một tháng trưởng thành chúng lấy nhau, con cái chửa một tháng thì đẻ ra một đôi thỏ đực cái, con đực lại giao phối với con cái vừa đẻ xong, một tháng sau đẻ ra đôi thỏ mới. Đôi thỏ đã sinh ra trước đó sau một tháng lại lấy nhau, sau một tháng nữa lại đẻ ra đôi thỏ con v.v. cứ thế tiếp tục.

Vậy nếu ban đầu có một đôi thỏ thì sau n tháng có mấy đôi. Kết quả tính là số cặp theo từng tháng, xếp thành một dãy số, số sau bằng hai số trước nó cộng lại:

1, 1, 2, 3, 5, 8, 13, 21, 34, 55, 89, 144…

Đó là dãy Fibonacci, có trật tự (tìm ra được theo một quy luật toán học) nhưng không tuần hoàn. Ở về phía số lớn, lấy số sau chia cho số trước, thí dụ 144:89=1,6179… gần bằng tỉ số vàng (V5+1):2=1,6180339…, số ở dãy Fibonacci càng lớn thì tỉ số nói trên càng gần tỉ số vàng.

Bây giờ nếu khoanh lại một diện tích khá lớn ở hình lát gạch hoa Penrose, tỉ lệ giữa số hình thoi béo và hình thoi gầy cũng gần bằng tỉ số vàng (V5+1):2 hoặc lấy tỉ lệ giữa một số loại khoảng cách giữa các nguyên tử trong chuẩn tinh thể, ta cũng được tỉ số vàng đó.

Vậy là tỉ lệ vàng luôn thống trị trong cấu trúc có trật tự nhưng không tuần hoàn. Chuẩn tinh thể đã góp phần làm sáng tỏ những bí mật trong tự nhiên.

Ta đã thấy toán học hỗ trợ rất nhiều cho những phát kiến táo bạo về chuẩn tinh thể của Shechtman. Nếu như ở giai đoạn đầu một nhà hóa học lớn của Mỹ là Linus Pauling, người đã được giải Nobel, còn nói: làm gì có chuẩn tinh thể, chỉ có những nhà chuẩn khoa học, thì đến năm 1992 Hiệp hội quốc tế về tinh thể học do có chuẩn tinh thể nên phải thay đổi cả định nghĩa quan trọng về tinh thể.

Trước 1992 định nghĩa về tinh thể là: “chất được cấu tạo bằng nguyên tử, phân tử hay ion được xếp khít theo trật tự đều đặn, lặp lại theo cả ba chiều”.

Sau năm 1992, bị ảnh hưởng của phát kiến của Shechtman, định nghĩa về tinh thể “thoáng hơn”: đó là “bất kỳ chất rắn nào cho ảnh nhiễu xạ chủ yếu là gián đoạn”.

Như vậy theo định nghĩa mới hiện nay tinh thể gồm cả tinh thể theo định nghĩa cũ và chuẩn tinh thể. Nói cách khác, cụm từ chuẩn tinh thể hiện nay đang dùng phải hiểu là “gần như là tinh thể hiểu theo nghĩa cũ trước đây”.

4. Chuẩn tinh thể: thực tế và ứng dụng

Phát hiện của Shechtman về chuẩn tinh thể không phải chỉ là làm ra được một mẫu tinh thể loại mới có đối xứng vào loại cấm kỵ. Phát hiện của Shechtman mở ra một kỷ nguyên mới về nhận thức rằng có một dạng cấu trúc vật chất có trật tự nhưng không tuần hoàn để cho mọi người biết và chế tạo ra những loại vật liệu mới có những tính chất kỳ lạ xưa nay chưa từng có.

Sau phát hiện của Shechtman, nhiều nhà nghiên cứu cho biết là từ trước họ đã tìm ra nhiều loại hợp kim đúng là chuẩn tinh thể nhưng họ lại không tin, cố tình một cách rất gượng ép để giải thích đó là tinh thể thông thường. Đến năm 2009 người ta lại tìm thấy ở sông Khatyrca phía đông của nước Nga một loại quặng mỏ chứa nhom, đồng và sắt cho ảnh nhiễu xạ có đối xứng bậc 10. Đây chính là chuẩn tinh thể có sẵn trong tự nhiên.

Nhưng chủ yếu là từ những đặc điểm của cấu trúc chuẩn tinh thể người ta đã làm ra được nhiều loại chuẩn tinh thể để ứng dụng trong khoa học và đời sống.

Về mặt chế tạo chuẩn tinh thể người ta biết rằng ở tinh thể (theo nghĩa cũ) các nguyên tử sắp xếp rất có trật tự và trật tự lặp lại theo những khoảng cách rất dài. Vì vậy nấu cho kim loại, hợp kim nóng chảy rồi để nguội bình thường thì các nguyên tử trong đó kịp thời về các vị trí có trật tự tuần hoàn tạo ra tinh thể. Còn nếu làm nguội cực nhanh, có thể các nguyên tử dang ở trạng thái nóng chảy sắp xếp lộn xộn kiểu như ở thủy tinh bỗng nhiên đông cứng lại nên không kịp chạy về các vị trí cân bằng có trật tự. Dó đó làm nguội nhanh đối với một số kim loại, hợp kim có thể dẫn đến trạng thái vô định hình hoặc trạng thái có trật tự nhưng không hoàn toàn tức là trạng thái chuẩn tinh thể.

Vì những lẽ trên cách làm nguội nhanh, phun phủ trên bề mặt (cũng là nguội nhanh) cũng là cách thường dùng để chế tạo chuẩn tinh thể.

Sau đây là một vài thí dụ ứng dụng chuẩn tinh thể đã phổ biến rộng rãi.

1. Ứng dụng để tạo bề mặt cứng, trơn, ít bị hóa chất tác dụng, chịu được nhiệt độ cao.

Ta biết rằng thủy tinh có cấu trúc vô định hình (không có trật tự) thường có bề mặt cứng trơn nhưng giòn, dễ vỡ còn hợp kim thông thường có cấu trúc tinh thể, có thể chọn được loại cứng như không giòn, chịu được nhiệt độ cao.

Có thể chọn hợp kim thích hợp, nhiều thành phần, làm thành bột rồi phun phủ dưới dạng plasma nóng lên bề mặt kim loại hoặc hợp kim để tạo thành lớp dày từ phần mười đến nửa milimet chuẩn tinh thể. Lớp này phun lên bề mặt chảo, chảo trở thành không dính, không dễ bị cào sướt, chịu được nhiệt độ cao tốt hơn nhiều so với chảo không dính phủ teflon hiện nay.

Cũng theo cách này với thành phần hợp kim chọn lọc cao cấp hơn người ta đã phủ chuẩn tinh thể lên pittông và xy lanh của động cơ nổ, làm cho chuyển động bên trong được trơn tru, ít bị hóa chất cháy tác dụng, làm việc được ổn định ở nhiệt độ cao.

2. Tạo ra loại thép cứng nhất nhưng không dễ gãy. Theo lý thuyết thì sắt thép bị đứt gãy dưới giới hạn là do trong sắt théo luôn có một loại sai hỏng gọi là đường lệch mạng, chúng chuyển động âm thầm dưới tác dụng của lực tác dụng dồn nén lại phá vỡ những chỗ cực nhỏ bên trong rồi lan rộng ra. Cách làm cho sắt thép được cứng bền, lâu nay là cách tạo ra bên trong những chướng ngại vật để lệch mạng khó chuyển động.

Một cách chế tạo sắt théo cực tốt hiện nay là tạo ra trong đó những hạt nhỏ là chuẩn tinh thể để ngăn cản lệch mạng. Theo cách này người ta đã làm được các loại thép cứng chưa từng có nhưng lại không dễ gãy để sử dụng thí dụ làm dao mổ mắt, mũi khoan răng, lưỡi dao cạo, v.v.

3. Ứng dụng làm vật liệu nhiệt điện

Một cách phát điện hay làm lạnh không cần động cơ là dùng hiệu ứng nhiệt điện. Đó là ghép hai kim loại, hợp kim hoặc bán dẫn khác nhau lại tạo thành cặp nhiệt điện. Nếu cho dòng điện chạy qua mạch thì một đầu ghép lạnh đi, nhiệt được đẩy về làm nóng đầu kia. Đây là cách làm lạnh nhiệt điện.

Ngược lại nếu nung nóng một đầu ghép còn đầu kia để nguội thì trong cặp nhiệt điện sẽ sinh ra dòng điện. Đây là cách phát ra điện dùng nhiệt hay là cách phát nhiệt điện.

Muốn làm cặp nhiệt điện có hiệu suất cao vật liệu làm cặp nhiệt điện phải đồng thời dẫn điện được nhưng dẫn nhiệt kém, kim loại, hợp kim thường dẫn điện quá tốt nhưng dẫn nhiệt cũng quá tốt. Chất bán dẫn thì hiệu suất nhiệt điện rất kém, dẫn điện cũng không tốt mà dẫn nhiệt cũng không tốt nhưng lại không chịu được nhiệt độ cao. Một số chuẩn tinh thể làm từ hợp kim có thể đáp ứng dẫn điện được mà dẫn nhiệt lại kém (so với hợp kim thường) do đó làm vật liệu nhiệt điện rất thích hợp. Máy phát nhiệt điện cũng như máy làm lạnh nhiệt điện làm từ vật liệu chuẩn tinh thể là có hiệu suất cao nhất hiện nay mở ra triển vọng làm máy lạnh chạy không ồn, máy phát điện không động cơ chạy từ một nguồn nóng, có thể tạo ra điện từ ống xả ở động cơ ô tô, máy kéo chẳng hạn.

Chuẩn tinh thể được ứng dụng để làm vật liệu quang điện tử, làm đèn LED có hiệu suất cao, làm cách nhiệt ở các động cơ làm việc ở nhiệt độ cao trong tên lửa, hàng không vũ trụ… khó kể hết được.

Giải Nobel Hóa học năm 2011 trao cho Daniel Shechtman không những đạt tiêu chí “công trình nghiên cứu đem lại nhiều lợi ích cho nhân loại” mà còn cho thấy một tấm gương trong khoa học kiên trì dũng cảm đấu tranh cho chân lý, dẫu rằng chân lý đó trái với nề nếp suy nghĩ lâu đời của các vị trưởng lão trong khoa học.

Xem Thêm

Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Vai trò nòng cốt, quy tụ trí tuệ, kết nối nguồn lực của VAA trong điều khiển và tự động hóa
Ngày 27/12 tại Hà Nội, Hội Tự động hóa Việt Nam (VAA) long trọng tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, nhiệm kỳ 2025-2030. Với chủ đề “Tiếp nối - Phát triển”, Đại hội thể hiện rõ định hướng kế thừa, đổi mới và quyết tâm của VAA trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, nơi khoa học - công nghệ và tự động hóa giữ vai trò then chốt.
Gia Lai: Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tổng kết hoạt động năm 2025
Ngày 26/12/2025, tại phường Quy Nhơn, Hội nghị Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Gia Lai (Liên hiệp hội) lần thứ III đã diễn ra với sự tham dự của đại diện lãnh đạo Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, các ủy viên Ban Chấp hành, đại diện các đơn vị thành viên Liên hiệp hội.
Vĩnh Long: Tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành tổng kết hoạt động năm 2025 và phương hướng nhiệm vụ năm 2026
Sáng ngày 26/12, tại Hội trường Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị phường Phước Hậu, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long (Liên hiệp hội) tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành năm 2025. Hội nghị do Ban Thường vụ Liên hiệp hội tỉnh chủ trì, với sự tham dự của các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành và đại diện lãnh đạo các sở, ban, ngành liên quan.
Thanh Hóa: Tổng kết Hội thi Sáng tạo kỹ thuật cấp tỉnh lần thứ 14 (2024 - 2025)
Sáng ngày 25/12/2025, Ban Tổ chức Hội thi Sáng tạo kỹ thuật Thanh Hóa (Hội thi) tổ chức Lễ tổng kết và trao giải thưởng Hội thi lần thứ 14 (2024 - 2025). Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Phạm Ngọc Linh đã tham dự, phát biểu chúc mừng Ban Tổ chức Hội thi và các tập thể, cá nhân đạt giải tại buổi lễ.
Đắk Lắk: TS. Phan Xuân Lĩnh được bầu làm Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh
Ngày 25/12/2025, Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức Hội nghị về thực hiện quy trình công tác cán bộ. Tại Hội nghị, với 100% số phiếu nhất trí, Ban Chấp hành đã bầu TS. Phan Xuân Lĩnh tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk khóa I, nhiệm kỳ 2025 - 2030.
Khối Khoa học xã hội tổng kết công tác năm 2025
Sáng 23/12, tại Hà Nội, Khối Khoa học xã hội (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức hội nghị tổng kết hoạt động năm 2025 và đề ra nhiệm vụ thực hiện năm 2026. Đến dự có đại diện Thường trực Hội đồng Thi đua- Khen thưởng Liên hiệp Hội Việt Nam; lãnh đạo của các đơn vị thành viện thuộc Khối Khoa học xã hội.
Ông Bùi Trung Kiên được tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2025-2030
Chiều ngày 24/12, TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), đã tới dự và phát biểu chỉ đạo tại Đại hội đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hưng Yên (Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên) lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể Trung ương lần thứ I: Thống nhất trong đa dạng
Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể TƯ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 không chỉ là một dấu mốc về mặt tổ chức, mà còn mang ý nghĩa lịch sử, mở ra chặng đường phát triển mới cho công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong toàn khối. Đại hội thể hiện sâu sắc sự "thống nhất trong đa dạng" - đa dạng về hình thái các tổ chức đoàn trực thuộc và thống nhất về mục tiêu hành động.
Vĩnh Long: Tổng kết Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, Nhi đồng và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa
Sáng ngày 24/12/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, các đơn vị có liên quan tổ chức Hội nghị tổng kết và trao giải Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, nhi đồng tỉnh Vĩnh Long lần thứ XIV, năm học 2024-2025 và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa lần thứ X, năm 2024-2025.
Nhìn lại năm 2025: Những con số biết nói thể hiện sự đóng góp đối với xã hội từ các tổ chức KH&CN trực thuộc VUSTA
Năm 2025, các tổ chức KH&CN trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét, là minh chứng sinh động cho vai trò tiên phong của KHCN trong phụng sự xã hội. Hàng trăm đề tài, dự án KH&CN được triển khai hiệu quả đã lan tỏa giá trị thiết thực trong chăm sóc sức khỏe, xóa đói giảm nghèo, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường và phản biện chính sách.