Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ ba, 11/04/2006 00:37 (GMT+7)

Chữ viết các dân tộc thiểu số Việt Nam

Ở các nước Đông Nam Á và Nam Á, mỗi cộng đồng dân tộc thiểu số thường sống tập trung theo vùng và dân số giữa các dân tộc không chênh lệch nhau nhiều, nhưng ở Việt Nam, người Việt (Kinh) chiếm tới 87% dân số giữa quốc gia (số liệu của Tổng cục Thống kê tính đến ngày 1-4-1999). Họ có mặt ở tất cả các tỉnh thành trong cả nước, từ vùng núi cao cho tới hải đảo. Vì lẽ đó, tiếng Việt được các dân tộc thiểu số xem là ngôn ngữ chung trong giao tiếp giữa các dân tộc. Tiếng Việt là tác nhân thiết yếu thúc đẩy sự phát triển kinh tế và văn hoá, thực sự trở thành phương tiện đoàn kết các dân tộc ở Việt Nam.

Trong hiến pháp Việt Nam không có điều khoản nào cản trở việc sử dụng ngôn ngữ của tộc mình, kể cả dạy và học. Nhà nước còn khuyến khích việc sử dụng ngôn ngữ của tộc mình và học bất cứ ngôn ngữ dân tộc nào trong cộng đồng. Sách, báo, truyền hình, phát thanh bằng tiếng dân tộc được mở ra ở các vùng có dân tộc sử dụng ngôn ngữ đó tập trung. Tuy nhiên, một điều cần nhận thức rằng, để tiếp cận với thế giới hiện đại, phát triển và cùng phát triển, đổi mới, các dân tộc thiểu số ở Việt Nam gặp khá nhiều khó khăn, trước hết là ngôn ngữ. Chỉ có tiếng nói chưa đủ, phải có chữ viết. Sự nghèo nàn về hệ thống từ vựng, sự không chuẩn mực và thống nhất trong cách diễn đạt câu, ngữ… trong tiếp nhận thông tin và lại chưa có một hệ thống thuật ngữ khoa học đủ để tiếp nhận tính hiện đại hoá của xã hội mới, đang thực sự là một rào cản lớn.

Trong 53 dân tộc thiểu số ở Việt Nam chỉ có một số dân tộc có chữ viết. Tuy tất cả ngôn ngữ các dân tộc đều thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập, song không có nghĩa là giống nhau, đã thế lại rất nhiều loại chữ.

Ghi nhận được 28 trong 53 dân tộc thiểu số Việt Nam có chữ viết, nhưng trên thực tế không như vậy. Chữ Di - chữ Lô Lô cổ thực ra chỉ có trong ký ức, rất hiếm có người già nào biết. Còn lại là một vài vật thể có hình ảnh mà người già Lô Lô cho là chữ Di. Nếu chữ Di lớp người Lô Lô hiện nay không ai biết, thì tình trạng chữ Nôm của dân tộc Tày, Nùng, của người Dao có khá hơn. Đã có những văn bản, kể cả tác phẩm văn học bằng chữ Nôm dân tộc truyền lại và như vậy chữ viết đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn văn hoá. Nhưng muốn biết chữ Nôm dân tộc - ví dụ Nôm Tày, trước hết phải biết tiếng Hán. Dựa vào chữ Hán, người ta ghi lại âm đọc tiếng Tày (tiếng Nùng, Dao) bằng cách thêm, bớt nét chữ tượng hình Hán. Tất nhiên chữ viết này không thể phổ biến, dạy cho mọi người của dân tộc vốn rất khó khăn về kinh tế và sống không tập trung. Vì thế tiếng Nôm Tày, Nôm Nùng, Nôm Dao chỉ có các thầy tào, thầy cúng và một số trí thức dân tộc biết. Hiện nay, mỗi xã (chứ không phải bản, làng) chỉ một, hai người biết chữ Nôm dân tộc mình. Một số người già dùng ngay tiếng Hán để ghi chép, đặc biệt là người Dao. Số trẻ thì dùng ngay chữ quốc ngữ ghi chép “cho tiện lợi”.

Các nhà dân tộc học luôn xem ngôn ngữ - bao gồm ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết - là một trong các tiêu chí quan trọng để xét thành phần dân tộc. Chữ viết dân tộc dựa trên tiếng nói dân tộc đó, phản ánh các quy tắc ngữ âm của tiếng dân tộc, vì thế người ta có thể tạo ra chữ viết. Tiếng Việt từ đầu thế kỷ XX đã dùng chữ quốc ngữ làm chữ viết chính thống (tuy lúc đầu các văn bản còn ghi kèm chữ Hán, chữ Nôm, chữ Pháp), từ 1945 trở đi, chữ quốc ngữ thực sự trở thành chữ quốc gia. Sự tiện dùng, đơn giản của chữ quốc ngữ thì ai cũng biết, nó được xây dựng dựa trên cơ sở chữ viết La tinh. Người Pháp xâm lược và thống trị nước ta, nghĩ ngay tới việc dùng hệ chữ La tinh này trong công cuộc chinh phục thực dân hoá. Năm 1923 chữ Ê-đê theo tự dạng La tinh do người Pháp đặt ra, cùng thời kỳ đó các chữ có tự dạng La tinh được người Pháp xây dựng cho các dân tộc Ba-na, Gia - rai, Xơ - đăng, Xtiêng, Hrê, Cơ - ho.

Sau khi giải phóng miền Bắc, Nhà nước Việt Nam đã xây dựng bộ chữ Tày - Nùng trên cơ sở La tinh hoá, gần với chữ quốc ngữ. Chữ La tinh Tày, Nùng được ban hành năm 1961 trên cơ sở ngữ âm tiếng Tày vùng Tràng Định, Hoà An… tỉnh Cao Bằng. Chữ Tày - Nùng La tinh hoá được đưa vào giảng dạy ở cấp 1 (tiểu học hiện nay) cho dân tộc Tày và dân tộc Nùng với hàng chục vạn học sinh và trên 1.000 lớp học. Phong trào học tiếng Tày - Nùng La tinh hoá đã phát triển mạnh mẽ không chỉ trong giáo dục, mà còn ở văn hoá, văn học, văn nghệ, phát thanh. Sau đó, phong trào xuống dần, tới năm 1978 việc dạy chữ Tày - Nùng ở cấp 1 hoàn toàn biết mất! Điều đáng chú ý là sự ghép 2 dân tộc trong một ngôn ngữ - chữ viết chỉ dựa trên tiếng Tày một địa phương, coi tiếng Nùng như một phương ngữ của tiếng Tày nên tất yếu dẫn tới tình trạng đáng tiếc trên. (Xem thêm, Nguyễn Trọng Báu, Bản sắc dân tộc trước khuynh hướng gộp hai nền văn hoá làm một. Tạp chí “Dân tộc & Thời đại”, số 41 tháng 4/2002.)

Chữ viết Hmông La tinh hoá được nhà nước xây dựng và cho ban hành năm 1961. Chữ viết này lấy ngữ âm của người Hmông Hoa ở Sa Pa (Lào Cai) làm cơ sở, các thanh điệu được ký hiệu bằng các con chữ thay thế để ở cuối âm tiết. Chữ viết này không hệ thống và phức tạp vì nhiều ký hiệu nên khó học. Từ 1962 chữ Hmông được đưa vào dạy ở cấp 1 và Nhà nước dùng chữ này để xoá mù chữ cho người Hmông. Ngoài sách giáo khoa dùng trong giáo dục phổ thông, tiếng Hmông còn được in trên báo chí riêng bằng chữ Hmông cải tiến, các tác phẩm văn hoá, văn học, nghệ thuật, phát thanh, truyền hình đếu có in toàn bộ hoặc xen kẽ chữ Hmông. Tuy nhiên, chữ viết này không được hưởng ứng, tới nay giảm sút và chỉ còn hạn chế trong phạm vi hoạt động hẹp.

Người Thái có chữ Thái cổ, có nguồn gốc từ chữ Ấn Độ, dạng chữ cổ Sanskrít, tuy nhiên chữ viết này có khác nhau ở các địa phương. Hiện ghi được 8 loại chữ Thái cổ. Chữ Thái cổ xuất hiện ít nhất cũng từ vài trăm năm trước. Các tác phẩm thơ ca, truyện cổ còn lưu lại tới nay nhờ những văn bản chữ Thái cổ như các ghi chép tục ngữ, dân ca, truyện thơ Sóng chụ son sao, Quắm tố Mướng…, luật tục, công văn… Chữ Thái cổ thực sự đóng vai trò gìn giữ, bảo tồn văn hoá phi vật thể dân tộc Thái. Có 2 lần, chính quyền tiến hành cải tiến chữ Thái cổ và biên soạn sách dạy chữ này. Song chỉ được một thời gian vì chữ cải tiến không giúp ích cho việc giữ gìn chữ Thái cổ cũng như tiếp nhận văn hoá ở cấp phổ thông qua chữ quốc ngữ. Song song với việc bảo tồn chữ Thái cổ, năm 1970 bộ phận cải tiến chữ Thái lại thực hiện xây dựng chữ Thái La tinh hoá. Năm 1981 phương án chữ Thái La tinh hoá được đưa vào sử dụng trong nhiều lĩnh vực, kể cả văn hoá, văn học, nghệ thuật…

Chữ Chăm của dân tộc Chăm có nguồn gốc từ chữ Ấn Độ cổ, chữ Sanskrít. Sự xuất hiện của nền văn hoá Chămpa đã làm chữ Chăm phát triển và như vậy chữ Chăm cổ phải có sớm hơn thế kỷ thứ III sau công nguyên. Chữ chăm đang tồn tại 2 dạng: dạng Akhar rik (chữ Thánh) và dạng chữ Akhar thrah là chữ Chăm thường dùng, nhưng không phải là chữ Chăm hiện đại ngày nay. Thời chính quyền Sài Gòn từ những năm 60 của thế kỷ XX đã thực hiện La tinh hoá chữ Chăm. Dạng chữ La tinh hoá này người Chăm thấy khó khăn và việc dạy chữ không thu hút họ.

Người Hoa ở Việt Nam nói nhiều phương ngữ khác nhau, thậm chí không hiểu nhau. Dân tộc Hoa ở Việt Nam đều dùng chữ Hán tượng hình, Hán Quan thoại. Các lớp học của người Hoa đều dùng chữ Hán trong giảng dạy, học tập.

Dân tộc Khơ-me dùng chữ viết thống nhất với chữ Khơ-me của Campuchia có tự dạng Sanskrít. Chữ Khơ-me được dạy ở bậc tiểu học thời Pháp thuộc, chính quyền Sài Gòn cũ không cho dạy ở các nhà trường, trừ chùa là nơi vẫn có lớp học chữ Khơ-me. Hiện nay chữ Khơ-me được đưa vào học chính thức ở các trường phổ thông tại một số nơi. Các lớp học chữ Khơ-me tại các chùa vẫn tiến hành. Hệ thống thông tin, báo chí, truyền hình, phát thanh và các ấn phẩm văn học, văn hoá bằng tiếng Khơ-me được phát hành đều đặn.

Ở miền Nam vào những năm cuối 60 đầu 70 của thế kỷ XX, Viện Ngôn ngữ học Mùa hè Mỹ SIL (Summer institute of linguistics), trên cơ sở chữ viết La tinh hoá do người Pháp đặt ra cho dân tộc Gia-rai, Cơ-ho đã cải tiến chữ viết của họ, đồng thời cũng cải tiến chữ viết La tinh hoá do Mặt trận Dân tộc giải phóng đặt ra trước đó, như chữ viết của các dân tộc Ra-giai, Cơ-tu, Tà-ôi (Pa-cô). Thời kỳ từ 1965-1974, SIL đã xây dựng chữ viết mới La tinh hoá cho các dân tộc: Mnông, Bru - Vân Kiều, Giẻ-Triêng, Mạ, Co, Chơ-ro, Chu-ru.

Như vậy, tình hình chữ viết các dân tộc thiểu số ở nước ta có sự phát triển không đều, có nhiều dân tộc đến nay vẫn chưa xây dựng được chữ viết cho mình. Thậm chí có dân tộc bản địa lâu đời, số dân đông như dân tộc Mường - đứng thứ 6 về dân số ở Việt Nam, lại chưa có chữ viết của mình. Ngược lại có dân tộc có tới 2-3 chữ viết, trước kia hoặc sau này vẫn song song tồn tại như chữ Thái cổ và chữ Thái La tinh hoá, chữ Chăm cổ, chữ Chăm La tinh hoá. Dân tộc Cơ-ho có tới 3 dạng chữ viết: chữ do cha cố đặt ra trước 1945, sau đó Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam đầu năm 1960 cải tiến. Tới các năm đầu 1970, Viện Ngôn ngữ học Mùa hè Mỹ SIL lại cải tiến thêm một bước chữ viết này. Nhiều dân tộc chưa có chữ viết đang tiến hành phiên âm các từ ngữ dân tộc theo hệ chữ quốc ngữ - một dạng La tinh hoá.

Bức tranh đa dạng về chữ viết các dân tộc thiểu số Việt Nam cho thấy toàn cảnh đời sống ngôn ngữ Việt Nam. Nó đặt ra cho các nhà dân tộc học và ngôn ngữ học những vấn đề cụ thể để xây dựng, phát triển chữ dân tộc với nhiệm vụ giúp phương tiện bảo tồn và phản ánh bản sắc văn hoá mỗi dân tộc.

Nguồn: Dân tộc và Thời đại, số 76, 3/2005, tr 2 - 4

Xem Thêm

Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Đảng bộ Liên hiệp Hội Việt Nam: Kiểm điểm, đánh giá chất lượng Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025
Ngày 12/12, Đảng bộ Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị kiểm điểm đối với tập thể, cá nhân Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025. Đồng chí Phạm Ngọc Linh, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy, Phó Chủ tịch Liên hiệp hội Việt Nam chủ trì Hội nghị. Tham dự có đồng chí Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam cùng các đồng chí trong BCH Đảng bộ.
Chủ tịch Phan Xuân Dũng dẫn đoàn Việt Nam tham dự Triển lãm quốc tế về Sáng tạo khoa học công nghệ (SIIF 2025) tại Seoul
Từ ngày 3-7/12, Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) được tổ chức tại thủ đô Seoul, Hàn Quốc. Theo lời mời của Hiệp hội Xúc tiến sáng chế Hàn Quốc (KIPA), Quỹ Sáng tạo kỹ thuật Việt Nam (VIFOTEC) đã thành lập đoàn tham gia Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) do TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam, Chủ tịch Quỹ VIFOTEC - làm trưởng đoàn.
Tìm giải pháp truyền thông đột phá cho phát triển khoa học công nghệ
Nghị quyết 57-NQ/TW xác định vị thế khoa học, công nghệ và chuyển đổi số là chìa khóa để Việt Nam vươn mình, trở thành quốc gia phát triển. Giới chuyên gia đưa ra lộ trình cụ thể giúp truyền thông chính sách thành hành động, từ xây dựng tòa soạn thông minh đến phát triển hệ sinh thái nội dung số.
Liên hiệp Hội Việt Nam tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ
Chiều ngày 09/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức buổi tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ. Đây là hoạt động tiếp nối tinh thần của Lễ phát động ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên do Liên hiệp Hội Việt Nam tổ chức vào ngày 24/11 vừa qua.
Trí thức Việt Nam đồng hành cùng tương lai Xanh
Đội ngũ trí thức Việt Nam luôn đóng vai trò then chốt với những đóng góp trong nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, đổi mới sáng tạo, tư vấn chính sách và truyền cảm hứng cộng đồng. Những chuyển động mạnh mẽ về khoa học môi trường, năng lượng sạch, kinh tế tuần hoàn và công nghệ xanh trong thời gian qua có dấu ấn đậm nét của đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ nước ta…
Phát huy vai trò đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong đột phá phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo
Sáng ngày 05/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Nữ trí thức Việt Nam (VAFIW) tổ chức Hội thảo “Phát huy vai trò đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo”.
Các nhà khoa học giao lưu, thuyết giảng tại trường đại học
Từ trí tuệ nhân tạo (AI), vật liệu bán dẫn hữu cơ, công nghệ y học đến biến đổi khí hậu và đa dạng sinh học… những buổi trò chuyện không chỉ mở rộng tri thức chuyên sâu mà còn truyền cảm hứng mạnh mẽ về hành trình chinh phục khoa học cho hàng nghìn sinh viên và giảng viên cả nước.