Chính quyền thuộc địa Pháp trước thực trạng đốt nương làm rẫy ở Đông Dương
Trên bán đảo Đông dương, giống như khắp nơi ở Đông Nam Á, luôn tồn tại hai phương thức trồng lúa. Phương thức sản xuất lớn là trồng lúa nước, trên những đồng ruộng ngập nước hay được tưới nước. Do nhu cầu làm chủ nguồn nước, nó đã trở thành biểu trưng của các nền văn minh nông nghiệp châu Á. Tuy nhiên, vẫn tồn tại một hình thái lớn của nghề trồng lúa: trồng lúa cạn trên nương rẫy. Nó được áp dụng ở những địa hình hiểm trở phía Nam Đông Dương, trên miền núi cao và cao nguyên nối liền với dải Trường Sơn. Ở đây, những người nông dân - đốt rẫy chủ yếu là cư dân địa phương của vùng đất cao như Mnông, Gia Rai, Brao, Stiêng, Ba Na, Ê đê,… những cư dân được coi như người chiễm lĩnh đầu tiên vùng đất này, phân biệt với các dân đồng bằng như người Việt, Lào hay Khmer, bằng ngôn ngữ, tập quán, tổ chức xã hội và nền văn minh.
Vào nửa cuối thế kỷ XIX, nước Pháp xâm chiếm bán đào này và xây dựng Đông Dương thuộc Pháp bao gồm lãnh thổ của Việt Nam, Campuchia, Lào và các vùng đất cao trên dải Trường Sơn. Trong khuôn khổ một phần của sứ mệnh khai hoá, nhưng cũng nhằm khai thác thuộc đại, chính quyền thực dân Pháp đã phát triển một luận thuyết và một chính sách riêng biệt đối với việc đốt nương làm rẫy đang áp dụng trên miền rừng núi Đông Dương. Với độ lùi lịch sử hiện nay, có thể cho phép ta thấy mối liên quan giữa những đại diện của thực dân Pháp đối với việc đốt nương làm rẫy và những điều chúng ta biết hiện nay về phương thức trồng trọt đó, trong khi nắm bắt hậu quả của những chính sách của nền cai trị thuộc địa Pháp.
Nương rẫy trên vùng đất cao Nam Đông Dương
Kỹ sư nông học Jacques Barrau, nhà thực vật học và nhân học, đã định nghĩa nương rẫy ở Đông Nam châu Á như là một phương thức canh tác “bằng đốt rẫy với thời gian bỏ hoá dài giữa không gian rừng cây” (1). Cách định nghĩa tổng quát đó có ưu điểm là trình bày đúng với thực tế việc thực hành trong khi vẫn dành đủ chỗ cho những biến thái địa phương (2). Nông dân vùng cao trên bán đảo Đông Dương khi muốn canh tác một khoảng đất trong rừng, thì phải đốn cây trên bề mặt mà họ định trồng trọt, rồi đốt lửa. Họ sẽ sử dụng khoảnh đất đó từ một đến ba năm trước khi lặp lại công việc đó ở một nơi xa hơn. Đốt nương rẫy không thể coi là một kỹ thuật khai hoang. Thật vậy, rừng lại mọc lên trên những nương rẫy bỏ hoá. Người nông dân sẽ quay trở lại sau một thời gian không nhất định, nói chung là từ 10 đến 20 năm, và lặp lại công việc đó. Khu rừng mà dân làng hoạt động, có thể coi như là một không gian bỏ hoá trong thời gian dài, về tiềm năng thì sẵn sàng để canh tác lại. Nên biết rằng làm nương rẫy trong những khu rừng mọc dày sẽ đem lại năng suất cao nhất, cho nên người nông dân luôn để cho rừng mọc lại đầy đủ trước khi khai phá để làm nương rẫy mới. Khi những người nông dân phải đến những nơi quá xa làng, thì họ dời làng đi.
Năm trồng trọt ở vùng cao
Lịch nông nghiệp bắt đầu từ cuối mùa khô, vào tháng hai – ba (3). Đất định đốt rẫy được chọn căn cứ vào năng suất dự tính trước. Thường người ta chọn những sườn đất dốc để cho nước mưa có thể trôi đi, nhưng không dốc quá, cũng phải tính đến điều kiện đất đai, tính chất của rừng cây, và cả những yếu tố ma thuật – tôn giáo. Ví như sự có mặt của một con rắn hổ mang trên đất sẽ khai phá thường được coi là dấu hiệu của thần linh phản đối việc sử dụng mảnh đất được chọn, khi đó phải đi tìm một nơi khác để làm nương rẫy. Chọn đất xong, người ta chặt những cây mọc trên bề mặt, những cây to nhất và gốc cây được để tại chỗ. Một phần những cây đốn hạ được dùng làm bờ rào bao quanh mảnh nương nhằm ngăn chặn thú rừng phá hoại. Những cây còn lại để khô tại chỗ. Khi cơn mưa đầu mùa tháng 4 xuất hiện, rẫy được đốt. Đấy là một công việc đặc biệt khó khăn vì khói và phải kiểm soát được ngọn lửa.
Việc gieo hạt được thực hiện ít lâu sau. Đàn ông xếp hàng ngang tiến lên dùng gậy chọc những cái lỗ xuống đất. Theo sau họ, đàn bà bỏ xuống mỗi hốc vài hạt thóc. Ngoài lúa còn có rau, ngô, thuốc lá, cây có sợi, câu thuốc nhuộm hay cây dược liệu cũng được trồng. Sự đa dạng của cây trồng trên nương rẫy là một đặc điểm khác của hệ thống canh tác này. Một cái nhà hay ít ra là một cái lều được dựng lên trên rẫy để có thể thường xuyên kiểm soát. Những cái lều dựng trên rẫy này được cây cỏ che khuất có thể sử dụng làm nơi trú ẩn trong trường hợp có nguy hiểm đe doạ ngôi làng chính. Từ tháng 6 trở đi, khi thóc đã nẩy mầm, việc chăm sóc rẫy được tăng cường. Rau bắt đầu được thu hái. Ngô gieo vào tháng 7, rồi đến lúa sớm. Vào tháng 11, cuối mùa mưa, thì gặt lúa muộn, vụ quan trọng nhất của cộng đồng.
Nhận thức về nương rẫy của người Pháp
Một trong những mô tả chi tiết về đốt nương rẫy của người Pháp là do nhà thám hiểm Henri Mouhot thực hiện sau 3 tháng sống cùng một đoàn truyền giáo ở vùng người Stiêng phía đông Campuchia. Mouhot không hề đánh giá về giá trị của phương thức trồng trọt này. Ông mô tả chỉ vì nó khác lạ, “khác rất nhiều với những nhà nông chúng ta khi họ trồng lúa mì hay lúa mạch trên cánh đồng” (4). Mouhot từ lâu đã được coi là một ngoại lệ.
Một hệ thống trồng trọt được coi là năng suất thấp và phá hoại
Thực vật, song song với việc thiết lập chế độ thuộc địa Pháp ở Việt Nam, Lào và Campuchia, có một lập luận phê phán được dựng lên đối với việc đốt rẫy. Từ năm 1853, linh mục Combes, người xây dựng đoàn truyền giáo ở vùng người Ba Na tại Kontum, đã viết:
“Đất đai ở vùng người Ba Na có vẻ khá phì nhiêu, tuy rằng nó có kém hơn so với vùng các bộ tộc khác xung quanh. Nhiều làng gieo một mà gặt hái một trăm, và những nơi kém hơn thu hoạch từ mười lăm đến hai mươi. Sản lượng như vậy cho ta kết luận rằng ở đây người dân không biết đến sự khắc nghiệt của nạn đói, tuy nhiên hiếm khi họ có đủ thóc để chịu đựng một cách thoải mái từ vụ nọ đến vụ kia. Điều đó có nhiều nguyên nhân và đặc biệt là do phương thức trồng trọt. Khi người Ba Na đốn hạ một góc rừng và đốt lửa để làm nương rẫy, đất đai khai phá sẽ đem lại sức sống từ hai hay ba năm, đúng như vậy, để bù đắp cho những cực nhọc mà họ phải bỏ ra trong công việc vất vả đó; nhưng công cụ mà họ có không cho phép duy trì độ phì nhiêu của đất đai: tất cả những gì họ đã làm và có thể làm là gieo hạt xuống đất bằng một cái gậy nhọn, và sau đó là làm cỏ bằng một các cuốc nhỏ, bề mặt chỉ rộng có ba đốt ngón tay. Họ không muốn xới đất, vả lại họ cũng không có phương tiện hay có sức; vì vậy đất đai nhanh chóng bạc màu, và sau ba vụ thu hoạch, nó lại bị bỏ hoá để trả về với rừng cây, để cho nó gục xuống rồi lại đứng lên lần nữa mà không bao giờ biến mất hẳn” (5).
Văn bản của linh mục Combes đáng cho ta dừng lại ở những mâu thuẫn mà nó bộc lộ. Ông vừa mô tả những vụ thu hoạch đặc biệt, vừa mô tả nạn thiếu ăn hay đói kém mà theo ông là thường xuyên xảy ra ở những người làm nương rẫy. Ông vừa giải thích một mặt là do độ màu mỡ của đất giảm đi sau hai hay ba năm, trong khi nói rằng khi đó người nông dân Ba Na thay đổi nơi làm rẫy, và mặt khác lại giải thích là do sự thô sơ của công cụ và cách thức trồng trọt. Đối với linh mục Combes, trồng trọt của người Ba Na là không đủ vì nó nguyên thuỷ.
Nhà nhân học Oscar Salemink đã trình bày rõ tác động của lối diễn giải do các nhà truyền giáo viết ra, trong thế kỷ XIX họ được coi là những chuyên gia hiểu biết nhất về cư dân vùng cao (6). Bức thư đó được công bố năm 1873 trong công trình của Pierre Dourisboure, Người man dân Ba Na, được in lại ít ra là 12 lần từ 1875 đến 1929.Rõ ràng nó đã góp phần vào việc áp đặt ý tưởng rằng việc đốt vạt rừng mà người ta gọi là “rẫy”, là không có khả năng nuôi sống những người trồng trọt. Sự khẳng định đó được lặp lại trong phần lớn những công trình bàn về chủ đề này xuất bản trong thời kỳ thuộc địa. Cho nên trong cuốn địa chí Đăk Lắc xuất bản nhân dịp triển lãm thuộc địa ở Vincennes năm 1931, ta có thể đọc thấy “năng suất lúa vùng núi thấp hơn nhiều so với lúa trồng dưới ruộng, người Mọi còn trồng cả ngô” (7).
Làm nương rẫy còn bị lên án là tàn phá rừng cây ở Đông Dương và cụ thể là những không gian rừng rậm đã bị biến thành đồng cỏ hay rừng thưa. Trong một công trình tham khảo biên soạn trong những năm 1930, Maurand, kỹ sư thuỷ lâm học, phụ trách trạm trồng rừng Nam-Đông Dương thuộc viện nghiên cứu nông nghiệp và lâm nghiệp Đông Dương, đã mở đầu chương trình khai hoang như sau:
“Việc khai thác phá rừng có nguyên nhân là do: tạo ra những cây trồng thường xuyên, làm nương rẫy, những vụ cháy rừng và lửa đốt rẫy” (8).
Ông tiếp tục trình bày nương rẫy như là “một trong những nguyên nhân tàn phá các loại cây rừng”. Người ta lại thấy cách đánh giá đó trong cuốn Đông Dương hiện đại, bách khoa thư hành chính, du lịch, nghệ thuật và kinh tếcủa Eugène Teston và Maurice Percheron. Trong chương nói về rừng của công trình đồ sộ và sang trọng cho đông đảo độc giả, được coi như là sự trình bày toàn diện về Đông Dương thuộc Pháp, ta có thể đọc thấy:
“Những vụ cháy do người bản xứ đốt lên và sự khai thác bừa bãi do họ thực hành trước khi tổ chức lâm nghiệp Pháp can thiệp, là những thảm hoạ lớn đối với rừng cây Đông Dương.
Thật vậy, trong tất cả các miền của thuộc địa và đặc biệt ở trong nội địa, nơi sinh sống của các bộ tộc Mọi, chỉ duy nhất cách trồng trọt đó đã gây nên những thiệt hại không thể tính được đối với rừng cây, và ta có thể dự tính trước sự lần lượt biến mất của những khu rừng đẹp nhất.
Chính nhờ vào nỗ lực khôn ngoan, nhẫn nại và kiên trì của các nhà lâm nghiệp Pháp, đã hạn chế trong chừng mực có thể những sự tàn phá truyền thống đó, mà Đông Dương mới có thể bảo tồn được những rừng cây đẹp đẽ của nó” (9).
Cơ quan kiểm lâm Đông Dương đánh giá rằng rừng Đông Dương bị thu hẹp nhiều kể từ khi chính phủ thuộc địa. Sự thu hẹp của rừng đã được các công trình lịch sử xác nhận, cụ thể là của Frédéric Thomas (10). Các nhân viên kiểm lâm Đông Dương được nhà cầm đầu chính quyền thuộc địa coi như là chuyên gia trong lĩnh vực của mình, lên án việc làm nương rẫy như là nguyên nhân chính.
Cuối cùng, làm nương rẫy được công nhận là tạo thuận lợi cho việc du cư của cư dân, các làng có thể thay đổi vị trí và gây khó khăn cho sự kiểm soát hành chính đối với cư dân lưu động.
Chú thích:
1. Jacques Barau, Culture itinéran-te, culture sur brulis, culture nomade, écobouage ou essartage? Un problème de terminologie agraire, ÉtudEs rurales, số XXX, tháng 1-3, 1972, tr.99-103.
2. Xem Georges Condominas, “Aspects écologiques d’un espace social restreint en Asie du Sud-Est. Les Mnong Gar et leur environnement”, Études rurales, tháng 1-9, 1983, số 89-90-91, tr.11-76.
3. G. Condominas, Sđd, tr.21 và 28.
4. Henri Mouhot, Voyages dans les royaumes de Siam, de Cambodge et du Laos et autres parties centrales de I’Indochine, Hachette, Paris, 1868.
5. Pierre Dourisboure, Les sauvages Bahnars (Cochinchine orientale), souvenirs d’un missionnaire, Missions étrangères, Paris, 1922 (1873).
6. Oscar Salemink, The Ethnogra-phy of Vietnam’s Central Highlanders, a historrical contextualization, 1850-1990, University of Hawai’I Press, Honolulu, 2003.
7. A. Monffleur, Monographie de la province du Darlac, I. D. E.O., Hà Nội, 1931.
8. P. Maurand, L’Indochine forestière, rapport au VIIe Congrès international d’Agriculture tropicale et subtr-ropical, I.D.E.O.,Hà Nội, 1938.
9. Eugène Teston, Maurice Percheron, L’Indochine moderne, encyclopédie administrative, touristique, artistique et économique, Librrairie de France, Paris, 1931.
10. Frédéric Thomas, Histoire du régime et des serviecess forestiers francais en Indochine de 1862 à 1945, sociologie des sciences et des pratiques scientifiquess coloniales en forêts tropicales, The Gioi, Hà Nội, 1999.