Cấu trúc nghịc nhân quả của các cặp phụ từ hô ứng trong truyện Kiều
1. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du sử dụng rất nhiều phụ từ: phụ từ đơn, phụ từ đôi, cặp phụ từ… Loại trừ những trường hợp phụ từ thuần nhất mang đặc điểm của nó vốn có là làm thành phần phụ trong cụm từ và loại trừ những phụ từ chỉ có tác dụng nối từ với cụm từ,… chúng ta tìm hiểu những cặp phụ từ không chỉ thể hiện ý nghĩa một chiều với trung tâm mà nó còn hướng ra ngoài để thể hiện mối quan hệ ý nghĩa hai chiều giữa các vế trong câu ghép. Chính nhờ có mối quan hệ hai chiều đó mà khả năng biểu đạt càng cao, giúp ta hiểu nội dung vấn đề được nêu trong câu càng sâu. Đặc biệt là những trường hợp phụ từ sóng đôi có quan hệ nghịch nhân quả.
2. Thống kê toàn bộ tác phẩm Truyện Kiều, những phụ từ có khả năng xác lập câu ghép xuất hiện: 123 lần. Với một số phụ từ quen thuộc, gần gũi như: đã, chưa, còn, lại, vừa, cũng, cứ, càng…, Nguyễn Du đã tạo ra các cặp phụ từ để xác lập các kiểu câu ghép. Trong đó, trường hợp các cặp phụ từ sóng đôi chỉ quan hệ nghịch nhân quả xuất hiện 65 lần.
2.1. Cấu trúc nghịch nhân quả sớm
Khi hai đối tượng X và Y có các trạng thái xảy ra theo thứ tự thời gian, nghĩa là A xảy ra trước C còn B xảy ra trước D. Nếu X vẫn còn ở trạng thái A mà Y đã chuyển sang trạng thái D thì đây là hiện tượng nghịch nhân quả sớm (theo Nguyễn Đức Dân).
Ví dụ:
Còn chi nữa cánh hoa tàn
Tơ lòng đã dứt dây đàn Tiểu Lân
Thống kê các cặp phụ từ sóng đôi có quan hệ nghịch nhân quả sớm xuất trong Truyện Kiềuvới số lần là 31, được phân ra như sau:
- Nhóm “còn… đã (đà)…” : 10 lần, ví dụ:
+ Buông cầm, xốc áo, vội ra
Hương cònthơm nức, người đàvắng tanh (291-292)
- Nhóm “chưa… đã” : 7 lần, như:
+ Vâng lời khuyên giải thấp cao
Chưa xong điều nghĩ, đãdào mạch tương. (237-238)
- Nhóm “mới… đã”: 6 lần: như:
+ Nẻo xa mớitỏ mặt người
Khách đàxuống ngựa tơi nơi tự tình (141-142)
- Nhóm “vừa… đã”: 7 lần, như:
+ Thuyền tình vừaghé tới nơi
Thì đàtrâm gãy bình rơi bao giờ. (69-70)
- Nhóm “chưa… cũng” : 1 lần
+ Chưachăn gối cũngvợ chồng
Lòng nào mà nỡ dứt lòng cho đang (2815-2816)
Các cặp phụ từ sóng đôi chủ yếu diễn đạt quan hệ thời - thể giữa các sự việc diễn đạt trong hai vế câu (ý nghĩa của từng cặp là khác nhau). Ý nghĩa của chúng thường tập trung nhấn mạnh ở vế sau. Xét về một trường hợp tiêu biểu:
Thề hoa chưa ráo chén vàng
Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa.
Cặp phụ từ “chưa… đã” tuy không phải là cặp từ nối theo cách gọi truyền thống nhưng nó vẫn được dùng để nối hai vế của câu, tức là xác lập được câu ghép. Ở đây, nó có cấu tạo quan hệ thời gian nghịch đối, biểu thị sự kiện xảy ra nhanh trong thời gian: “còn”: đang tiến hành, vẫn tiếp tục; “đã”: hoàn thành của một hành động so với một hành động khác đang tiến hành chưa xong. (Sự việc ở vế sau xuất hiện sớm hơn sự việc nêu ở vế trước, trái với sự chờ đợi thông thường - một thứ thời gian tâm lí). Vì thế, dù có dùng hay không dùng cặp từ nối “tuy… nhưng…” thì “chưa… đã…” vẫ thể hiện mối quan hệ của hai vế: quan hệ nghịch nhân quả sớm. Nếu không có cặp phụ từ này thì hai trạng thái hành động “ráo chén vàng” và “phụ phàn với hoa” là hai trạng thái hành động có tính tất yếu phù hợp, nhưng khi có cặp phụ từ này thì ý nghĩa nghịch nhân quả thể hiện sâu sắc hơn. ( Chưa C“chưa ráo chén vàng” mà đã D: “đã phụ phàng với hoa”).
Cặp phụ từ “chưa… đã…” tạo nên sự nghịch đối cao giữa hai hành động: thề và phụ thề (chưa hoàn thành và hoàn thành). Lời thế sắt son, chung thuỷ của đôi trai tài - gái sắc: Kim - Kiều:
Đã nguyền hai chữ đồng tâm
Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai
Còn vang vọng bên tai, còn ghi đậm trong tim, như cuộc rượu còn “chưa ráo chén vàng” thế mà giờ đây, Kiều đành phụ phàng với lời thề đó, “cắn răng bẻ một chữ đồng làm hai”. Đó là điều mà nhân vật trữ tình - Thuý Kiều nào có muốn. Chính vì vậy, lời nói của Thuý Kiều trong hai câu: :Thề hoa chưa ráo chén vàng, lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa” là một lời than thân, tự trách, lời tâm sự não nề, chua xót khi nghĩ về người bạn tình của mình.
2.2. Cấu trúc nghịch nhân quả muộn
Khi hai đối tượng X và Y có các trạng thái xảy ra theo thứ tự thời gian, nghĩa là A xảy ra trước C còn B xảy ra trước D. Nếu X đã chuyển sang trạng thái C mà Y vẫn còn ở trạng thái B thì đây là hiện tượng nghịch nhân quả muộn.
Theo thống kê, các cặp phụ từ sóng đôi có quan hệ nghịch nhân quả muộn xuất hiện trong Truyện Kiềuvới số lần là 34, được phân ra như sau:
- Nhóm “đã… còn…” : 18 lần, như:
+ Ở đây âm khí nặng nề
Bóng chiều đãngả dặm về cònxa (113-114)
- Nhóm “đã… mới…” : 6 lần, kiểu như:
+ Mé ngoài họ Mã vừa sang
Tờ hoa đãkí, cân vàng mớitrao (685-686)
- Nhóm “đã… chưa…” : 2 lần, kiểu như:
+ Đầu xanh đãtội tình gì?
Má hồng đến quả nửa thì chưathôi! (2161-2162)
- Nhóm “đã… lại…” : 6 lần, kiểu như:
+ Đãlòng hiển hiện cho xem
Tạ lòng nàng lạinối thêm vài lời (129-130)
- Nhóm “đã… ắt…” : 2 lần, kiểu như:
+ Mới hay tiền định chẳng lầm
Đãtin điều trước ắtnhằm điều sau (2049-2410)
Ý nghĩa của các cặp phụ từ sóng đôi thể hiện quan hệ nghịch nhân quả muộn trong Truyện Kiềucủa Nguyễn Du tập trung nhấn mạnh ở vế trước. “Đã… còn…” thể hiện quan hệ bổ sung, tăng tiến, biểu thị sắc thái ý nghĩa cho rằng như vậy là nhiều quá, (hoặc thể hiện như là sự thái quá).
Ví dụ:
Bóng tà như giục cơn buồn
Khách đà lên ngựa người còn nghé theo
Nếu chúng ta xem xét những từ “đã”, “còn” là những từ đơn thuần phụ nghĩa cho các từ trung tâm thì chúng ta không thể nào hiểu hết nội dung ý nghĩa giữa các vế trong mối quan hệ nghịch nhân quả muộn, tức là xem xét nó trong sự có mặt của những phụ từ ‘đã… còn…” thì mới hiếu hết cái tâm trạng luyến tiếc, bịn rịn của Thuý Kiều trong lúc ấy như thế nào.
Rõ ràng, hai hành động của hai đối tượng có chiều nghịch nhau. Ở đây, ta còn bắt gặp cặp phụ từ này biểu hiện nghĩa tăng tiến ủa sự tình. Chính cặp từ “đã… còn…” giúp ta hiểu sâu hơn câu thơ này.
Từ việc phân tích đặc điểm logic - ngữ nghĩa và giá trị của việc sử dụng các cặp phụ từ sóng đôi có quan hệ nghịch nhân quả, ta thấy: khi phụ từ có khả năng xác lập câu ghép xuất hiện thì ta xem xét nó như là yếu tố chính trong mối quan hệ ý nghĩa giữa các vế trong câu ghép, không nên xem nó là yếu tố phụ trong kết cấu chính phụ và ở đây cũng không cần thiết phải có cặp quan hệ từ xuất hiện.
3. Như vậy, cách dùng cặp phụ từ hô ứng để xác lập câu ghép thể hiện quan hệ nghịch nhân quả đã đem lại những bổ ích cho việc nghiên cứu ngôn ngữ Truyện Kiều. Để đảm nhận vai trò của quan hệ từ, phụ từ mở rộng thêm chức năng, mang đặc điểm “nước đôi” của hai từ loại đó - xét trên mối quan hệ ngữ nghĩa - logic hình thức. Trên một phương diện nào đó, phụ từ có quan hệ gần gũi với quan hệ từ. Nếu trong câu không xuất hiện cặp quan hệ từ để nối hai vế mà chỉ có cặp phụ từ thì cặp phụ từ này vừa là phụ tố bổ nghĩa vừa đảm nhiệm vai trò nối kết. Ý nghĩa biểu đạt của nó càng sâu sắc hơn. Nó thể hiện được tư tưởng, tình cảm… của con người nhất là trong phong cách ngôn ngữ nghệ thuật. Chính quan hệ ý nghĩa của từng phụ từ, từng cặp phụ từ tạo nên giá trị và sắc thái tu từ khác nhau.
Và có thể nói một điều thú vị là chúng ta thấy việc sử dụng của Nguyễn Du thật tài tình, khéo léo và linh hoạt trong việc đảo vị trí của các cặp phụ từ chỉ quan hệ nghịch nhân quả. Khi thì: còn… đã; mới… đã,khi thì: đã… còn; đã… chưa; đã… mới;…để tạo ra quan hệ nghịch nhân quả sớm và nghịch nhân quả muộn, thể hiện được những hoàn cảnh, những nội dung khác nhau. Do vậy, có thể nói: đây là một trong những góc nhìn ngôn ngữ học giúp chúng ta hiểu thêm Truyện Kiều.
Tài liệu tham khảo
1. Diệp Quang Ban - Giáo trình ngữ pháp tiếng Việt, Giáo dục, 2001.
2. Lê Cận - Phan Thiều - Giáo trình ngữ pháp tiếng Việt, t. 1, Giáo dục, 1983.
3. Nguyễn Đức Dân - Một số phương thức thể hiện ý chí tuyệt đối, Tạp chí Ngôn ngữ s.3-1985.
4. Nguyễn Đức Dân - Logic và tiếng Việt, Giáo dục, 1998.
5. Nguyễn Văn Khoả - Về cách hiểu từ “đã” trong truyện Kiều, Tạp chí Ngôn ngữ s.3-1972.
6. Lê Đình Kỵ - Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực, KHXH, 1970.
7. Đinh Trọng Lạc - Bùi Minh Toán - Tiếng Việt, t.2, Giáo dục 1995.
8. Đặng Thanh Lê, (trích, giới thiệu và chú thích) - Nguyễn Du - Truyện Kiều, Giáo dục, 1972.
9. Hoàng Phê - Logic - ngôn ngữ học, Đà Nẵng, 2003.
10. Viện Ngôn ngữ học, Hoàng Tuệ - Tuyển tập ngôn ngữ học, ĐHQG TP. HCM, 2001.
Nguồn: Tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống, số 7 (117), 2005, tr 5-7








