Cao nguyên M’nông cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Rõ ràng đây là một phong trào nằm trong mặt trận dấu tranh chung của hai dân tộc Việt Nam - Campuchia trong thời kỳ lịch sử cận hiện đại chống thực dân Pháp xâm lược thống trị, giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do cho tổ quốc ở mỗi nước. Vì vậy, muốn đánh giá đúng đắn phong trào, không thể không đặt nó trong bối cảnh lịch sử chung của hai nước trong những năm cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX; mặt khác, không thể không nắm vững đặc điểm tình hình Cao nguyên M’nông trong cùng thời kỳ đó.
Cao nguyên M’nông, trong thư tịch của Pháp trước kia, thường được gọi là Cao nguyên Trung tâm Nam Đông Dương, hay gọn hơn là Cao nguyên Trung tâm. Được gọi là “trung tâm”, vì đây là một cao nguyên có vị trí đặc biệt trải rộng trên đất của cả ba xứ Trung kỳ, Nam kỳ và Cao Miên, nơi có cái gọi là “Ngã ba biên giới” giữa ba xứ hồi bấy giờ.
Là một cao nguyên thuộc khối Sơn nguyên Nam Đông Dương, nằm ở góc tây nam khối sơn nguyên này, cao nguyên M’nông có diện tích khoảng 1 vạn km2, trải dài trên 100 km Đông - Tây và 150 km Bắc - Nam, phía bắc và phía nam giáp với các cao nguyên Đăk Lăk, Lâm Viên và Bảo Lộc (Cao nguyên Mạ), phía nam và phía tây đổ xuống thành các vùng đất cao Đông Nam bộ Việt Nam và Đông Campuchia.
Địa thế Cao nguyên M’nông nhìn chung như một mái nhà. Nhiều nhà địa lý gọi đây là “mái nhà của Cực Nam Đông Dương”. Đường nóc là một cao nguyên dài và hẹp, người M’nông gọi là Yôk Luaich, có nghĩa là “Cao nguyên Đồi Cỏ”, rộng khoảng 6.000 km2, độ cao trung bình 800m. Từ Cao nguyên Đồi Cỏ này, đổ xuống bốn phía là những sườn dốc với những mạng lưới suối, sông dày đặc, ở phía bắc và phía tây chảy xuống các sông Xrê Pok, Prêk Tê và Prêk Chlong để đổ vào sông Mêkông, ở phía đông và phía nam chảy xuống các sông Đồng Nai, sông Bé để đổ ra Biển Đông. Vì vậy, Cao nguyên M’nông có địa hình chia cắt hiểm trở, giao lưu nội địa khó khăn. Để giao lưu với bên ngoài, chỉ có một con đường mòn tây - đông trên đất Campuchia, từ Krochê đến vùng biên giới với Đăk Lăk, có thể đi xe được trong mùa khô, và một con đường mòn bắc - nam trên đất Việt Nam, men theo đường phân thủy giữa hai sông Đồng Nai và sông Bé để đi xuống vùng châu thổ Đông Nam bộ.
Về kinh tế, Cao nguyên M’nông đã được thực dân Pháp, khi chúng mới xâm lược Nam kỳ và Cao Miên, đánh giá là có nhiều triển vọng lớn: triển vọng phát triển nông nghiệp, nhất là trồng cây công nghiệp và chăn nuôi; triển vọng khai thác các nguồn nước để phục vụ sinh hoạt, phục vụ phát triển nông nghiệp và công nghiệp ở Nam kỳ và Cao Miên; và cả triển vọng khai thác khoáng sản. Trên thực tế, Cao nguyên M’nông có khá nhiều tài nguyên thiên nhiên. Phần Cao nguyên thuộc Campuchia tuy thiếu đất nông nghiệp, nhưng có nhiều rừng thưa giàu gỗ quí có giá trị kinh tế cao, ngoài ra còn có trâu bò rừng và voi là những thứ săn có giá. Phần Cao nguyên thuộc Việt Nam được thiên nhiên ưu đãi hơn, có nhiều diện tích đất đỏ và rừng già với nhiều lâm thổ sản quí và những nguồn thuỷ năng dồi dào, những khoáng sản có giá trị, nhất là bôxit.
Từ lâu đời, Cao nuyên M’nông đã là quê hương của
![]() |
Người M’nông và người Xtiêng không chỉ là hai dân tộc láng giềng gần gũi mà còn là hai dân tộc anh em có quan hệ nguồn gốc lịch sử chung, cho đến trong thời kỳ Pháp thuộc vẫn cùng chung một giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội.
Ngôn ngữ M’nông và ngôn ngữ Xtiêng đều thuộc ngữ hệ môn Khơme, chung một tộc hệ ngôn ngữ với các dân tộc Mạ, Cơho, Bana, Xơđăng… Cũng như các dân tộc này, người M’nông và người Xtiêng thuộc lớp cư dân nền của miền Sơn nguyên.
Kinh tế và xã hội của người M’nông và người Xtiêng cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX cơ bản giống nhau và giống các dân tộc khác trên miền Sơn nguyên. Tuy nhiên, theo các tài liệu khảo sát hồi đầu thế kỷ, bộ mặt kinh tế xã hội của hai dân tộc cũng có những nét đặc thù phân biệt họ với các dân tộc khác.
Nguồn sống chủ yếu của họ cũng là làm rẫy, nhưng là rẫy du canh ngắn hạn (từ 1 đến 3 năm) kéo theo du cư nhịp độ nhanh. Chăn nuôi và thủ công nghiệp gia đình thô sơ và kém phát triển hơn. Săn bắn và hái lượm còn là những nguồn kinh tế bổ sung quan trọng. Do đó, nhìn toàn bộ xã hội, của cải tích luỹ được ít, phân hoá giàu nghèo không sâu, chênh lệch tài sản giữa những người khá giả (kuang, “người lớn”) so với số đông khó phân biệt. Ở một số vùng ven đồng bằng, có hiện tượng mua bán nô lệ. Song nhìn chung toàn Cao nguyên, số nô lệ không đáng kể. Không thấy nói ở người M’nông và người Xtiêng hồi ấy có những đầu làng tù tưởng là chủ nô như ở người Êđê, Giarai.
![]() |
Đoàn người đi săn - Nguồn EFEO cung cấp |
Cũng như các dân tộc khác trên toàn miền Sơn nguyên Nam Đông Dương, người M’nông và người Xtiêng là những dân tộc có tinh thần yêu độc lập tự do, có truyền thống bất khuất, chống xâm lược. Đặc điểm lịch sử của họ là từ những thế kỷ xa xưa cho đến thời kỳ cận đại, họ thuộc số ít dân tộc đã luôn giữ vững được cuộc sống độc lập tự do trên Cao nguyên quê hương của họ. Ở thời kỳ xa xưa, tổ tiên của họ đã không chấp nhận bất cứ một kẻ xâm lược nào, mặc dù sống sát nách những vương quốc cổ đại hùng mạnh (3). Đến thời kỳ hai nước Việt Nam và Campuchia bị đế quốc Pháp xâm lược, tổ tiên của họ đã đứng lên chống Pháp ngay trên quê hương, tham gia chiến đấu với quân chính qui của Nguyễn Tri Phương (1861), với nghĩa quân của liên minh Pôcum Bô - Trương Quyền (1866), đập tan hai ổ gián điệp Pháp trá hình hội truyền giáo cắm ở hai đầu Cao nguyên, gọi là Hội Thánh Tinh Su (4).
Ở khu vực Bu Jâng Đrâm (1860) và Hội Thánh Brơlam ở khu vực Bu Đốp (1866), hàng chục phái bộ điều tra, do thám do đế quốc Pháp tung vào Cao nguyên từ các phía trong các thập kỷ cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX cũng đều bị những người M’nông và người Xtiêng đương thời chặn đứng, đầy lùi, hay ít ra cũng gây nhiều khó khăn buộc phải bỏ cuộc. Cho đến thập kỷ đầu thế kỷ XX, khi chúng chính thức tiến quân xâm lược Cao nguyên M’nông, thực dân Pháp vẫn chưa có chỗ nào đứng trên miền Sơn nguyên bất khuất này.
Một trong những đặc điểm chủ yếu của tình hình chung các nước Đông Dương cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX là, cho đến hồi này, đế quốc Pháp đã căn bản hoàn thành kế hoạch xâm lược các nước bằng quân sự, và kể từ đây, chúng lần lượt triển khai các kế hoạch kinh tế nhằm mục đích cuối cùng là bóc lột và nô dịch nhân dân các nước. Nhưng mặt khác, nếu bọn xâm lược đã có thể bước đầu ổn định được chỗ đứng của chúng ở các vùng đồng bằng và đô thị, thì ở vùng rừng núi vẫn có nhiều khu vực rộng lớn chúng chưa kiểm soát được và còn vấp nhiều khó khăn trong việc chinh phục.
Để có thể thực hiện được âm mưu thâu tóm trong tay toàn bộ lãnh thổ các nước, hòng bóc lột nhân dân mỗi nước một cách toàn diện, sau khi đã rảnh tay ở các miền đồng bằng và đô thị, chúng liền đặt mạnh vấn đề chính thức chinh phục các vùng rừng núi. Miền Sơn nguyên NamĐông Dương là một địa bàn không chỉ có giá trị kinh tế to lớn mà còn là một vị trí quân sự chiến lược quan trọng trên địa bàn miền Nam Đông Dương. Do đó, nó đã trở thành mục tiêu chinh phục hàng đầu của thực dân Pháp.
Trong thực tế, như đã nói, không phải chờ đến thời kỳ
![]() |
Pôn Dume (Paul Doumer) được Pháp cử sang làm toàn quyền Đông Dương năm 1896 là kẻ đã phất cờ cho bọn thực dân Pháp chính thức tiến quân chinh phục miền Sơn nguyên Nam Đông Dương. Là một nhà chính trị thực dân có nhiều kinh nghiệm, ông đưa ra một loạt chủ trương có tính chất bước ngoặt, xuyên suốt cả thời Pháp thuộc trong chính sách nô dịch và thống trị các dân tộc Đông Dương nói chung, các dân tộc miền Sơn nguyên Nam Đông Dương nói riêng, kể cả về kinh tế, chính trị và quân sự.
Mở đầu kế hoạch thực dân Pháp chính thức tiến quân xâm nhập Sơn nguyên Nam Đông Dương là việc năm 1898 toàn quyền Đumer ra lệnh xoá bỏ chế độ sơn phòng của triều đình Huế đặt ở ba tỉnh Nam – Ngãi - Bình, thay thế vào đó là thành lập đồn Làng Ri ở Tây Quảng Ngãi với nhiệm vụ nắm quyền chỉ huy khu vực cả về quân sự, chính trị và hành chính. Bộ máy sơn phòng cũ của triều đình Huế bị bãi bỏ phần lớn, bộ phận nhỏ còn lại trở thành thuộc hạ của bọn quan đồn Pháp. Trong cùng một năm với đồn Làng Ri và trong những năm tiếp đó, hàng loạt đồn bốt theo mô hình đồn Làng Ri mọc lên, bao vây lấy miền Sơn nguyên Nam Đông Dương. Ở Trung kỳ là các đồn Trà Mi và An Lão (1901), Ba Tơ (1902), Bản Đon (1889), Cung Sơn (1900) và Ma Đrăk (1904). Ở Nam kỳ là các đồn Hớn Quản (1898), Đông Bông tây (1904) và Bu Đốp (1908). Ở Cao Miên là các đồn Mula Pumok (Vơn sai, 1904) và Xrây Ktum (1908). Chính từ các đồn trên vòng vây này, Đume và bọn kế chân đã tung các phái bộ khoa học, quân sự - chính trị của chúng để điều tra, do thám, lấn chiếm dần miền Sơn nguyên theo kiểu vết dầu loang. Âm mưu của Đume là tách miền Sơn nguyên này thành một xứ,ở đó thực dân Pháp thực hiện trực trị và độc quyền bóc lột các dân tộc.
![]() |
Nguồn EFEO cung cấp |
Về quân sự, âm mưu của Đume là thành lập những lực lượng vũ trang người bản địa miền núi, dùng làm công cụ đàn áp cách mạng và làm bia đỡ đạn cho chúng khi chiến tranh xảy ra. Theo lệnh của Đume, âm mưu đó được xúc tiến ngay từ năm 1898 bằng việc thành lập một đội lính khố xanh - bản an 1500 tên, bố trí ở các đồn được thành lập. Một việc khác trong âm mưu đó là việc tuyển mộ cho quân đội thuộc địa Pháp 5.000 lính khố đỏ người Ê đê, Giarai và Bana. Số lính khố đỏ này dưới thời Đume và trong hai thập kỷ tiếp theo sau đó đã bắt được bao nhiêu không rõ. Chỉ biết phải chờ đến cuối thập kỷ 30 của thế kỷ XX, khi đòi hỏi của công cuộc bình định miền Sơn nguyên đã quá cao, lúc ấy mới thấy xuất hiện đơn vị lính khố đỏ đầu tiên gồm toàn người bản địa (6), và kể từ đó, việc bắt lính của Pháp ngày càng ráo riết.
Rõ ràng là chính sách bắt lính của Đume, cùng với chính sách xâu thuế của ông ta, đã cướp đi hàng năm một số lao động khoẻ nhất của các dân tộc miền núi Sơn nguyên Nam Đông Dương, và là một nguyên nhân chủ yếu khác, đã đẩy các dân tộc vào cảnh “bị nhổ bật ra khỏi nương rẫy, đi đến cảnh bần cùng, nhiều khi là nạn đói và nguy cơ của một nạn diệt vong dân tộc” (7). Nói về hậu quả nghiêm trọng của các chính sách xâu thuế và bắt lính của thực dân Pháp, có tác giả đã khẳng định, khi nói về người Ê đê, rằng: “Nếu không có gì xảy ra, thì trong 50 năm nữa (kể từ năm 1949), dân tộc này sẽ biến mất” (8). Như vậy là từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, bằng bàn tay của toàn quyền Đume, đế quốc Pháp đã thi hành một kế sách đồng bộ và toàn diện nhằm thâu tóm trong tay toàn bộ miền Sơn nguyên Nam Đông Dương, tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai thác kinh tế, xây dựng căn cứ quân sự chiến lược trên vùng rừng núi, cao nguyên giàu có và xung yếu này. Đồng thời cũng là mở đường cho việc triển khai các kế hoạch kinh tế của chúng trên toàn Đông Dương một cách thuận lợi.
Song kế hoạch của Đume không phải đã thực hiện được trôi chảy, trái lại đã vấp phải một sự chống đối hầu như không thể vượt qua từ phía các dân tộc trong toàn miền. Trước nguy cơ bị một kẻ thù lớn mạnh cướp mất cuộc sống độc lập và tự do mà lịch sử đã dành cho họ từ lâu đời, các dân tộc miền Sơn nguyên Nam Đông Dương đã hoặc lẻ tẻ, riêng rẽ, hoặc liên minh phối hợp với nhau, vùng lên chống lại bọn xâm lược, đánh vào các đồn bốt và các cuộc hành quân của giặc, chống thuế, chống xâu, hay ít nhất thì cũng lánh cư, bất hợp tác, không phục tùng. Cho đến những năm 30 đầu thế kỷ XX, ở Bắc và ở Nam Tây Nguyên còn những vùng rộng lớn hoàn toàn bỏ trắng đối với xâm lược Pháp.
Ở Nam - Ngãi - Bình, ngay từ năm Đume ra lệnh xoá bỏ chế độ sơn phòng, người Co và người Hrê đã liên tục nổi dậy, uy hiếp đồn Làng Ri, chống xâu thuế. Để đàn áp các cuộc nổi dậy, thực dân Pháp đã cho xây dựng từ bắc chí nam một hàng rào đồn bốt, ngoài các đồn Trà Mi và An Lão đã kể, còn thêm các đồn Traviang, Tunac và Mang Ta (1901), Minh Long (1905), Gia Vụt và Nước Vang (1908). Tuy nhiên, chúng vẫn không dập tắt được phong trào.
Ở Bắc Tây Nguyên, người Bana và người Xơđăng cũng không ngồi yên. Năm 1901, phối hợp với nghĩa quân Commanđan ở Hạ Lào, đồng bào Xơđăng dưới sự lãnh đạo của ông Brê đã đánh đồn Psi, diệt tên chỉ huy Pháp Rôbe (Robert), trong khi nghĩa quân Commanđan cũng hạ sát hai tên Pháp Hăngri (Henri) và Xich (Sicre) chỉ huy đồn Attopư ở Hạ Lào.
![]() |
Ở Trung Trường Sơn - Tây nguyên, năm 1900, người Bana và người Chăm huyện Đồng Xuân (Tây Phú Yên) tham gia đông đảo nghĩa quân Võ Trứ đánh vào sông Cầu, sau đó lại tham gia đội nghĩa quân của Đề Nam, người kế tục Võ Trứ. Năm 1902 - 1903, ở An Khê nổ ra cuộc nổi dậy của Thăng Mơ bao trùm nhiều làng Bana trong khu vực. Từ năm 1889 - 1905, dươi sự lãnh đạo của các thủ lĩnh Ama Wal, Ama Kơl, Ama Jhao, Trang Gưh, Patau Pui, Oi Mai, Oi Phai… hai dân tộc Êđê và Giarai liên tục nổi dậy chống thuế, chống xâu, chống bắt phu cướp đất làm đường. Cuộc nổi dậy của Trang Gưh, người Bih, chống tên công sứ Buốcgioa (Bourgeis) là một cuộc đấu tranh vũ trang lớn (1900). Cuộc nổi dậy của Patau Pui, người Giarai, năm 1904 giết tên quan cai trị Ođăngđan (Odend’hal) đã gây một chấn động lớn trong chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương. Công sứ Bacđanh (Bardin) ở Đăk Lăk và giám binh Vanhxilioni (Vincilioni) đã huy động gần 500 lính khố xanh và pactidăng (9) đến để đàn áp. Hăngri Met cho biết đến năm 1912, năm nổ ra cuộc khởi nghĩa Bơ Trang Lơng, người Êđê vẫn chưa nạp cho Pháp một xu thuế nào (10).
Ở miền núi Đông Nam kỳ, cho đến trong thập kỷ đầu của thế kỷ XX, người Xtiêng vẫn chống lại mọi cuộc xâm nhập của Pháp, mặc dù Pháp đã cắm được ở đây ba đồn lớn: Hớn Quản (1898), Đông Bông Tây (1904) và Bu Đốp (1906).
Ở phía Đông Cao Miên, người M’nông Biêt cũng không hạ vũ khí, mặc dù năm 1911, Pháp đã cắm ở đây đồn Mula Pumok (Vơnsai).
Tổng kết tình hình miền Sơn nguyên Nam Đông Dương, kể từ cuối thế kỷ XIX, khi Đume chính thức ra lệnh tiến quân xâm nhập cho đến năm 1911, năm Hăngri Met tuyên bố đã hoàn thành nhiệm vụ khảo sát – hành chính đối với Đông Cao Miên (Cao nguyên M’nông) mà y được giao, chính tên quan cai trị thực dân dày dạn này, cũng đã phải thốt lên rằng:
“Nhiều đồn bốt mọc lên, nhiều tỉnh được thành lập, nhưng rồi nhiều cái đã tan biến”.
“Có những người Pháp dũng cảm vẫn dấn thân đi vào đó - miền Sơn nguyên Nam Đông Dương - nhưng họ đã được đón tiếp bằng những trận mưa tên. Peru (Péroux), Canivây (Canivey) đã bị trọng thương. Còn Huy gô (Hugo), Rôbe, Ođăngđan, Pari (Pâris), Peranh (Perrin), Mexna (Mesnard) thì đã bị giết. Khi một cuộc nổi loạn nổ ra, tức thì một đội quân của Pháp liền được phái đến để đánh dẹp, nhưng sau đó đâu lại vào đấy. Các đồn Pháp bị vô hiệu hoá. Thậm chí đến các cuộc hành quân cũng đều bị nghiêm cấm, vì xét ra, đó chỉ là những cuộc phiêu lưu. Những cuộc nổi dậy này mà thắng lợi thì sẽ kéo theo những cuộc nổi dậy khác…”.
“Chỉ cách Sài Gòn ba ngày đường bộ, tôi (H. Met) đã đụng phải những nhóm bộ lạc Xtiêng không chấp nhận chúng ta (Pháp). Đây là một miền rừng núi chưa chịu khuất phục và còn ít được biết đến”.
“Mảnh đất còn chưa chịu khuất phục và ít được biết đến” mà Met vừa nói tới, chính là Cao nguyên M’nông. Trên đường về Pháp nghỉ phép, ngoái nhìn lại vệt trắng đó. Met đã thốt lên: “Chẳng nhẽ mảnh đất này lại không phải là của đế chế Pháp sao” (11). Đây là một lời than, cũng là lời thú nhận của gần ba thập kỷ cố gắng, nhưng không một tên Pháp nào, trong đó có cả Met, đã đặt được chất lên mảnh đất bất khuất này mà không bị thương vong, tổn thất. Và đây là câu hỏi mà met đã tìm cách giải đáp bằng cái gọi là “Phái bộ khảo sát - hành chính Đông Cao Miên” và hắn được giao năm 1908, với hai nhiệm vụ điều tra do thám, đồng thời xây dựng cơ sở hành chính cai trị cho chính quyền thực dân Pháp trên miền Sơn nguyên này.
Theo Lịch sử phong trào Bơ Trang Lưng,Hội Khoa học lịch sử Việt Nam , Nxb Hà Nội, 2000.
Chú thích
1. Khái niệm “Sơn nguyên Nam Đông Dương” được dùng ở đây là để gọi chung vùng Trường Sơn – Tây Nguyên và các vùng núi, cao nguyên tiếp cận thuộc Hạ Lào và Đông Campuchia.
2. Ngoài Cao nguyên M’nông, người Mnông còn phân bố ở Cao nguyên Đăk Lăk, dân số khoảng 8.000 người (1979) tập trung ở các huyện Lăk, Krông Bông, Krông Ana, gồm các nhóm Gar, Chil, Rlăm, Kuenh… Căn cứ chỉ số phát triển dân số chung của Đăk Lăk hơn nửa thế kỷ qua, có thể giả đoán dân số Cao nguyên M’nông hồi đầu thế kỷ có khoảng 50.000 người.
3. Theo Nyo, La Pénétration dans les Pays Mois, BSET, T. XII, No2, 1937, và Bourottem B., Essai d’histoire des Population… BSET, T.XXX, No1, 1995.
4. Gọi theo Monfleur, trong Monographie de la Province du Darlac, 1930. Hà Nội, 1931. Theo một tác giả khác cũng người Pháp thì đúng hơn phải gọi là Jâng Ju, tức Bu Jâng Ju, một làng M’nông xưa kia nằm trên đất ngày nay là huyện Đăk Mil, tỉnh Đăk Nông. Dấu vết họ dạo đó là số ruộng nước còn thấy được cho đến ngày nay ở vùng Êa Cor, trên đường từ huyện lỵ Đăk Mil đi huyện lỵ Đăk Nông. Có lẽ “Tinh Ju” của Monfleur chỉ là Jâng (Pháp phiên âm là Jeng) Ju bị tam sao thất bản (N.H.T).
5. Ngoài các phái bộ vừa kể, có thể kể thêm các phái bộ hoạt động từ Trung Tây Nguyên trở ra như Yecxanh (Yersin) 1892, quan hai Um (Oum) và quan ba Côle (Colère), 1903, Hăngri Đoocleăng (Henri d’Orléans) 1905, Đơ Bactêlêmy (De Barthélémy) 1907, Hăngri Met (Henri Maitre) 1906 - 1907, và các phái bộ hoạt động ở Nam Tây Nguyên như Đơ Bactêlêmy 1900 và Pat (Patte) 1904.
6. Gọi bằng tiếng Pháp là Bataillon des Tiraileurs Montagnards du Sud Annam, viết tắt là B. T. M. S. A, chúng tôi dịch là “Tiểu đoàn pháo thủ sơn cước Nam Trung kỳ” (từ đây viết tắt là TĐPTSCNTK.
7. Dambo. Les PEMSIENS. France Asie, No spécial 49 - 50.
8. Jourin, B. Y.. Enquête démegraphique du Darlac (1943 - 1944), BSET, T. XXV, No 3, 1950.
9. Phiên âm từ tiếng Pháp “partisan”. Chúng tôi hiểu từ này ở đây được dùng để chỉ những người dân phu bị quân Pháp bắt đi theo để phục dịch các cuộc hành quân của chúng, hơn là bất cứ lực lượng vũ trang tự nguyện nào theo giặc để đánh lại đồng bào mình.
10. Maitre, H. Les Jungles Mois. Paris , 1912.
11. Maitre, H. Tlđd.