Cái chết của Nhất Chi Mai và “Hãy sống giùm tôi!”
Tôi đạp xe vội lên Từ Nghiêm, vừa đi vừa khóc. Chị Nhất Chi Mai học Sử ở Văn khoa, tôi học Triết, chị rất thương tôi, coi tôi như một người em tâm đắc, thường gọi đi làm công tác xã hội cùng chị vào các xóm nghèo vùng ngoại ô Sài Gòn. Một người chị nhu mì, hiền lành, một nữ tu Dòng Tiếp hiện mà thầy Nhất Hạnh rất quý nể trong công tác với tâm bồ đề chân thành. Làm sao hiểu nổi chị đã chuẩn bị cho cái hạnh Bồ tát này, từ khi đọc báo nghe tin Morrison một giáo sư đại học Mỹ tự thiêu cho hoà bình Vệt Nam vào cuối năm 1965. Chị Mai đã khóc và kể lại cho tôi, Morrison bế đứa con gái thân yêu nhất đời Emily một tuổi ra trước toà nhà Ngũ Giác Đài bộ quốc phòng Mỹ tự thiêu để thức tỉnh lương tri con người, mong chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Emily đứng nhìn ngọn lửa thiêu sống cha mình kêu khóc: “Cha ơi!”.
Chị đã vô cùng xúc động và kính phục Morrison, rồi âm thầm tự nguyện đem thân làm đuốc để đáp lại tấm lòng bồ tát bên kia bờ đại dương trên xứ sở Mỹ đang gây chiến ở Việt Nam …
Tôi lên đến nơi thì ngọn lửa vừa tắt, Nhất Chi Mai của tôi ngồi xếp bằng như một pho tượng đồng đen bất động. Tôi đặt tay lên đùi chị, phải rụt lại ngay, suýt bỏng tay mình. Tôi gục xuống nức nở đau đớn: “Mai ơi! Sao phải như thế này? Không còn cách nào khác sao, hở Mai?” Nhìn hai pho tượng nhỏ Đức Mẹ Maria và Quan Âm Bồ tát đặt ngay ngắn trước mặt chị với 10 bức thư cho gia đình và cho những người có thẩm quyền gây chiến ở Việt Nam. Trong đó có bài thơ :
Chắp tay tôi quỳ xuống
Chắp tay tôi quỳ xuống
Sao người Mỹ tự thiêu
Sao thế giới biểu tình
Sao Việt Nam im tiếng
Không dám nói Hoà Bình
Tôi thấy mình hèn yếu
Tôi nghe lòng đắng cay
Sống mình không thể nói
Chết mới được ra lời
Hoà bình là có tội
Hoà bình là cộng sản
Tôi vì lòng nhân bản
Mà muốn nói hoà bình
Chắp tay tôi quỳ xuống
Chịu đau đớn thân này
Mong thoát lời thống thiết
Dừng tay lại người ơi!
Dừng tay lại người ơi!
Hai mươi năm nay rồi
Nhiều máu xương đã đổ
Đừng diệt chủng dân tôi!
Chắp tay tôi quỳ xuống.
( Nhất Chi Mai, Tự Nhất Chi (Kính cáo)
Tôi chép vội bài thơ và không dám ở lại với chị lâu hơn, cũng không thể tiễn đưa chị được vì chùa sợ cảnh sát tới gây khó dễ.
Tôi không về nhà mà đạp xe qua An Tiêm, gặp Trịnh Công Sơn ở đó kể hết sự tình cho Sơn nghe. Sơn hốt hoảng rơi người xuống ghế, sửng sốt chết lặng một lúc rồi kêu lên: “Trời ơi, con gái mà cũng tự thiêu à? Dễ sợ ghê quá, sao không ai can ngăn giùm?”.
Vài ngày sau Sơn nhắn tôi lên An Tiêm và ôm đàn hát miên man ca khúc vừa mới viết: “Hãy sống giùm tôi, hãy nói giùm tôi, hãy thở giùm tôi…” Sơn nói: “Hôm đó bạn về rồi, suốt ngày mình không làm gì được, suốt đêm cũng không ngủ được, cứ trằn trọc mãi với câu thơ của chị Mai “Sống mình không thể nói. Chết mới được ra lời” tại sao vậy? Mình đã tự hỏi bao lần như vậy. Tối qua vùng dậy viết… Cuối cùng đã trả lời được cho chị Mai, cho bạn và cho chính mình bằng mấy nốt nhạc này đây. Được chưa?”, Sơn đưa tôi bản nhạc chép tay vừa ráo mực. Tôi mừng quá đến chảy nước mắt: “Được quá Sơn ơi, bây giờ làm sao in cho sinh viên đây?” Sơn bảo: “Khoan đã, để từ từ mình sẽ in chung trong tập ca khúc da vàng vời bài Ru con (nay đổi là Ngủ đi con).
Bạn bè sợ 2 bài này ý mạnh quá, kẹt cho Sơn nên chỉ chuyền tay nhau trong sinh viên thôi. Sau đó, Sơn âm thầm mang đi Nhật Bản và được một hãng đĩa Nhật vinh danh là tiếng kêu hoà bình thống thiết nhất từ Việt Nam, được dịch ra nhiều thứ tiếng phổ biến khắp thế giới cùng tên tuổi của Trịnh Công Sơn và Khánh Ly.