Cải cách hành chính ở Nhật Bản
1. Khái quát về tồ chức nhà nước của Nhật Bản
Nhật Bản là một quốc gia hải đảo ở Đông á, có hơn6.800 đảo với diện tích tổng cộng là 378.000 km 2, dân số ước tính khoảng 127,6 triệu người (6 - 2009). Được xây dựng dựa trên hình mẫu của Liên hiệp vương quốc Anh và Bắc Ireland , hình thức chính thể của Nhật Bản là quân chủ lập hiến.
- Nhật hoàng là nguyên thủ quốc gia và là biểu tượng thống nhất của dân tộc. Đây là một chế độ kế vị cổ nhất thế giới .Nhật Hoàng đốc công dân Nhật Bản kính trọng nên có ảnh hưởng lớn trong xã hội. Quyền hạn của Nhật Hoàng được quy định trong Hiến pháp.
- Quốc hội Nhật Bản là cơ quan quyền lực tối cao (Điều 41 - Hiến pháp năm 1947). Quốc hội được cấu thành bởi Hạ nghị viện (Shugi-in) và Thương nghị viện (Shangi-in). Cả hai viện đều được cấu thành bởi các đại biểu đại diện cho quốc dân. Hạ viện đại diện cho ý kiến và nguyện vọng của quốc dân. Thượng viện giám sát quyền lực và sự phán quyết của hạ viện. Hạ viện có ưu thêm viện lập ra chính phủ nhưng có thể bị giải tán trước nhiệm kỳ. Nếu hạ viện bị giải tán thì trong thời gian đó, thượng viện sẽ tạm ngưng kỳ họp.
Trong cơ cấu của hạ viện, hệ thống các ủy ban có một vai trò rất quan trọng. Hạ viện có 17 ủy ban thường trực (mỗi ủy ban có từ 20 - 50 thành viên, phụ trách các lĩnh vực tương ứng với các bộ) và 8 ủy ban đặc biệt phụ trách về các nội dung cụ thể. Ngoài ra, hạ viện còn có thêm ban điều tra đạo đức chính trị (phụ trách việc kiểm tra giám sát trách nhiệm và đạo đức của các nghị sĩ).
Thượng viện có 17 ủy ban thường trục (mỗi ủy ban có từ 10 - 45 thành viên), 6 ủy ban đặc biệt, 3 ủy ban lâm thời điều tra về vấn đề quốc tế, kinh tế, sản xuất và tuyển dụng, xã hội cao tuổi ít con. Ngoài ra, thượng viện còn có thêm ban nghiên cứu hiến pháp và hội đồng thảo luận về đạo đức chính trị .
- Nội các Nhật Bản là nhánh quyền hành pháp, đứng đầu thủ tướng và giúp việc cho thủ tướng là các bộ trưởng. Tập thể nội các chịu trách nhiệm trước quốc hội và phải từ chức nếu hạ viện bị mất tín nhiệm. Theo Luật Nội các năm 2001, số lượng bộ trưởng không được quá 14 người, tuy nhiên, trong trường hợp đặc biệt, vẫn có thể lên đến 17 người. Nội các Nhật Bản có thể hành xử hai loại quyền lực. Một loại thực hiện thông qua Nhật hoàng theo thỉnh cầu và tư vấn của nội các (bao gồm: triệu tập quốc hội, giải tán hạ viện, tuyên bố tổng tuyển cử quốc hội, tiến hành các nghi lễ) Một loại nạn do nội các trực tiếp thực hiện (bao gồm: thực thi pháp luật, chính sách đối ngoại, ký kết các hiệp ước với sự phê chuẩn của quốc hội, quản lý các dịch vụ công, lập dự toán ngân sách trung, phê chuẩn các nghị định của Nội các, quyết định đại xá, đặc xá, phạt, giảm tội, khôi phục quyền, tất cả các luật và nghị đinh nội các đều do bộ trưởng liên quan ký).
- Tòa án Nhật Bản gồm 01 tòa án tối cao, 08 tòa án cấp cao (vùng), 50 tòa án địa phương, 50 tòa án gia đình, 488 tòa án đơn giản. Chánh án tòa án tối cao do nội các chỉ định và Nhật Hoàng bổ nhiệm, các thẩm phán tòa án tối cao khác do nội các bổ nhiệm dựa theo danh sách tiến cử của tòa án tối cao.
- Hệ thống chính quyền địa phương của Nhật Bản sau chiến tranh chịu ảnh hưởng rất nhiều từ tinh thần tự chủ kiểu Mỹ. Hạtlà địa phương cấp cơ sở ở Nhật Bản, chịu trách nhiệm chính trong việc cung ứng các hàng hóa công cộng thiết yếu. Cuối thập niên 1990, Nhật Bản có trên 3.000 hạt. Tinhlà địa phương cấp trung gian duy nhất giữa chính quyền trung ương với chính quyền cơ sở, chịu trách nhiệm chuyển tải các chính sách của trung ương về địa phương, thực hiện trách nhiệm chi đối với các kế hoạch phát triển tầm toàn vùng và cung ứng các hàng hóa công cộng quan trọng mà qui mô tác động của chúng vượt ra khỏi phạm vi một hạt như đường giao thông, bảo vệ môi trường…
Đơn vị hành chính lãnh thổ của Nhật Bản được chia làm 47 tỉnh và thủ đô. Các đô thị lớn tùy theo số dân và ảnh hưởng mà được chỉ định làm thành phố chính lệnh, thành phố trung tâm, thành phố đặc biệt. Nếu như trách nhiệm phân công cho chính quyền các tỉnh giống nhau, thì trách nhiệm phân công cho chính quyền các hạt lại không như nhau tùy theo dân số của mỗi hạt. Hạt càng đông dân thì chính quyền hạt càng được phân công nhiều trách nhiệm. Các hạt có quy mô dân số rất lớn có thể được trung ương quyết định là các thành phố chỉ định quốc gia và dược phân công rất nhiều trách nhiệm, có thể tương đương với trách nhiệm của chính quyền tỉnh mà hạt đó nằm trong. Các thành phố trung tâm vùng cũng được phân công nhiều trách nhiệm. Các trách nhiệm được quy định rất rõ ràng bởi pháp luật.
2. Tiến trình cải cách hành chính ởNhật Bản
Công cuộc cải cách hành chính của Nhật Bản được đánh giá là một cuộc cải cách lớn nhất kể từ thời Minh Trị đến nay. Nhật Bản tiến hành cuộc cải cách này với những lý do : Thứ nhất,sau những thành công rực rỡ về kinh tế, Nhật bản có tâm lý chung là ỷ lại , các đơn vị hành chính cấp dưới chờ đợi cấp trên, thiếu chủ động, không dám tự quyết , nhân dân cũng có tâm lý ỷ lại vào nhà nước.
Thứ hai,trong nội bộ đảng cầm quyền có sự phân hóa sâu sắc, chia thành nhiều phe phái, mỗi phe phái có thủ lĩnh riêng. Vì sự tồn tại của mình, thủ tướng luôn coi trọng mối quan hệ giữa các phe phái trong đảng và làm sao cố gắng giữ mối quan hệ hài hòa giữa họ. Mặt khác, theo cơ chế hiện hành, chủ tịch đảng cầm quyền đương nhiên sẽ trở thành thủ tướng, làm cho thủ tướng luôn có những hạn chế nhất định.
Thứ ba,bản thân nền hành chính Nhật Bản cũng có những hạn chế nhất định, nhất là sự chia rẽ theo ngành dọc. Mỗi bộ dường như là một lãnh địa riêng. Các chính trị gia cũng có những quyền lợi riêng trong việc hoạch định chính sách .Trên thực tế, trong Chính phủ Nhật Bản hiện nay hình thành các nhóm lợi ích cục bộ. Nền hành chính Nhật Bản vì thế, được đánh giá là không thông suốt, thiếu ổn định và thiếu khả năng thay đổi chính sách một cách hiệu quả, thiếu khả năng phản ứng nhanh trong các tình huống cấp bách về thiên tai, chưa nói đến những vấn đề lớn khác như an ninh, quốc phòng.
Các nhà nghiên cứu và quản lý đều cho rằng, chính phủ, thủ tướng và cả hệ thống hành chính Nhật Bản hiện nay có xu hướng phục vụ quyền lợi của các nhóm nhỏ, không đại diện quyền lợi của đông đảo công chúng.
Thú tư,giảm chi tiêu công. Những vấn đề trên đặt ra yêu cầu về một cuộc cải cách lớn nhằm nâng cao tinh thần tự lập, giảm bớt sự ỷ lại vào chính phủ; tăng cường vai trò lãnh đạo, kiểm soát của thủ tướng đối với các phe phái trong đảng cầm quyền và đối với nền hành chính, đồng thời, xây dựng bộ máy chính phủ gọn nhẹ, minh bạch và hiệu quả hơn.
Mục tiêu cải cáchcủa Nhật Bản là xây dựng một chính phủ có bộ máy gọn nhẹ, hiệu quả, hoạch định được những chính sách mang tầm chiến lược, toàn diện để đáp ứng với sự thay đổi thường xuyên của tình hình, có những quan điểm linh hoạt, mềm dẻo để quản lý tốt những vấn đề khẩn cấp, bất thường và có những quan điểm rõ ràng, thể hiện tinh thần trách nhiệm cao đối với nhân dân. Trên cơ sở đó, nội dung cơ bản của cải cách hành chính ở Nhật Bản là tăng cường sự lãnh dạo của thủ tướng và nội các; tổ chức lại các bộ theo hướng giảm số lượng các bộ, tăng cường vai trò tập trung quyền lực cho thủ tướng; xây dựng hệ thống các cơ quan hành chính độc lập .Để thực hiện điều đó, phương pháp thực hiện là quy định rõ phạm vi thẩm quyền của các bộ và thiết kế những thủ tục chặt chẽ để phối hợp công tác giữa các bộ; thiết lập một hệ thống tổ chức để đánh giá giá trị, đánh giá chính sách và đặc biệt là xây dựng các bộ phận thông tin mạnh; tách bộ phận kế hoạch, hoạch định chính sách khỏi các cơ quan có chức năng tổ chức, thực hiện và tư nhân hóa những công việc có thể tư nhân hóa được.
Tháng 10 -1996, Nhật Bản thành lập hội đồng cải cách hành chính và cải cách cơ cấu để tiến hành nghiên cứu, soạn thảo một báo cáo để trình lên chính phủ. Hơn một năm sau, tháng 12 - 1997, bản báo cáo cuối cùng của hội đồng đã hoàn tất và được thính phủ thông qua. Để thể hiện cải cám, Nhật Bản đã xây dựng một hệ thống văn bản pháp luật và chính sách: Luật Xây dựng văn phòng nội các (1999 Luật Cải cách chính phủ (6 -1998), 17 luật về tổ chức, hoạt động của các cơ quan trung ương và cơ quan hành chính độc lập (7 - 1999), 61 luật quy định vai trò, chức năng của các bộ và các cơ quan mới dự kiến sẽ thành lập (12 - 1999) và 90 nghị định của chính phủ về tổ chức bên trong của các bộ , các hội đồng và các tổ chúc khác (5 - 2000).
Một số kết quả đạt được
Một là, tăng cường chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của nội các và thủtướng
Điều này được thực hiện thông qua việc bổ sung, sửa đổi luật về nội các với các quy định nâng cao vai trò của phủ nội các so với các bộ , đồng thời , cũng nhằm tăng cường quyển lực và khả năng kiểm soát của thủ tướng đối với các bộ .
Phủ nội các có hai cơ quan khác nhau: ban thư ký nội các và văn phòng nội các, đều có chức năng giúp việc cho thủ tướng, quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó , văn phòng nội các là cơ quan hỗ trợ hành chính cho ban thư ký nội các:
- Ban thư ký nội các là cơ quan hoạch định và điều phối có quyền lực để hỗ trợ trực tiếp cho thủ tướng, hoạch định các chính sách cơ bản để quản lý đất nước, chịu trách nhiệm về chương trình nghị sự của nội các và những vấn đề chung liên quan đến nội các, phối hợp và lồng ghép các biện pháp quản lý của các bộ, thu thập, điều tra những thông tin liên quan đến chính sách quan trọng của nội các. Chức năng hoạch định chính sách và điều phối toàn diện của ban thư ký nội các đã thực sự để củng cố nhờ sự cải cách về tổ chức.
- Văn phòng nội các là cơ quan hành chính có vai trò kép. Một mặt, có trách nhiệm hỗ trợ cho nội các (trong vai trò này, văn phòng nội các có vị trí cao hơn so với các bộ), mặt khác, văn phòng nội các được xếp ngang các bộ trong việc tiếp nhận, xử lý các vấn đề của các cơ quan trong bộ máy hành chính. Văn phòng nội các có nhiều hội đồng chuyên môn như Hội đồng Chính sách kinh tế và tài chính, Hội đồng Nghệ thuật, khoa học và công nghệ, Hội đồng Bình đẳng giới, Hội đồng Phòng chống thiên tai, Ủy ban Năng lượng nguyên tử và một cơ quan đặc biệt phụ trách những vấn đề của hoàng gia. Ngoài ra, văn phòng nội các còn có một số cơ quan độc lập như Cục Phòng vệ, ủy ban An toàn công cộng quốc gia, Cơ quan Giám sát tài chính (thanh tra, giám sát mọi vấn đề về tài chính), Cục Nhân sự quốc gia. Văn phòng nội các là cơ quan phối hợp toàn diện về chính sách kinh tế, tài chính, nghệ thuật và khoa học - công nghệ, phòng chống thiên tai, bình đẳng giới , phát triển vùng ô-ki-na-oa và Hô-kai-đô…
Quyền lực và khả năng kiểm soát của thủ tướng đối với các bộ cũng được nâng lên. Thủ tướng có thể khởi xướng các chính sách và thông qua ban thư ký nội các cùng văn phòng nội các (với vai trò, vị trí đã được nâng lên và chính sách cho phép thu hút, điều động nhân tài từ các bộ) để hình thành các chính sách đó và tăng cường bổ nhiệm các chức vụ chính trị tại các bộ .Đây là những biện pháp nhằm tập trung quyền lãnh đạo, tăng cường vai trò của thủ tướng. Trước đây, các chính sách nói chung được đề xuất từ các bộ, đến nay những chính sách quan trọng có tầm chiến lược chủyếu sẽ được đề xuất từ thủ tướng. Trước đây, không có chính trị gia trong hệ thống hành chính, nay trung bình mỗi bộ có 5 chức vụ chính trị, một số thứ trưởng được chọn trong số các đại biểu quốc hội và được chỉ định vào văn phòng nội các và các bộ, có vị trí dưới bộ trưởng và trên các thứ trưởng phụ trách hành chính, có quyền thay bộ trưởng và chịu một phần trách nhiệm quan trọng của bộ .Một hệ thống các trợ lý chính trị của bộ trưởng cũng đã được chỉ định vào các bộ tham gia hoạch định chính sách và những công việc liên quan đến chính trị.
Hai là, tinh giản bộ máy hành chính. Tiến trình cải tổ bộ máy hành chính của Nhật Bản bắt đầu từ ngày 6 - 0 1 - 2001 và dựa trên các nguyên tắc cơ bản: tách chức năng soạn thảo chính sách và lập kế hoạch khỏi chức năng thực hiện chính sách ;tăng cường sự hợp tác giữa các bộ phận soạn thảo và thực thi chính sách trên cơ sở xác định rõ trách nhiệm của từng bên và thiết lập bộ phận để đánh giá chính sách; tổ chức các bộ theo mục tiêu chức năng; sắp xếp lại, hợp nhất các bộ theo các chức năng rộng lớn hơn để thu gọn bộ máy; chú ý đến các xung đột về quyền lợi để tổ chức cho hợp lý; bảo đảm sự cân đối (tương đối) giữa các bộ để cân bằng quyền lực và thuận lợi trong phối hợp; việc phối hợp giữa các bộ dựa trên mục tiêu và trách nhiệm tổng bộ.
Qua hai lần cải cách, bộ máy chính phủ ở trung ương đã được thu gọn đáng kể. Lẩn thứ nhất giảm từ 24 đầu mối xuống còn 13 đầu mối (12 bộ và văn phòng). Lần thứ hai giảm xuống còn 10 đầu mối (bao gồm: Bộ Quản lý công cộng, nội vụ và bưu chính viễn thông; Bộ Đất đai, cơ sở hạ tầng và vận tải; Bộ Tư pháp; Bộ Ngoại giao; Bộ Tài chính; Bộ Giáo dục, văn hóa, thể thao, khoa học và công nghệ; Bộ Y tế, lao động và phúc lợi; Bộ Nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp; Bộ Kinh tế, thương mại và công nghiệp; Bộ Môi trường). Ủy ban An toàn công cộng quốc gia và Cục Phòng vệ được đưa về trực thuộc văn phòng nội các.
Cùng với việc thu gọn các bộ, Nhật Bản cũng đã tiến hành giảm đáng kể số lượng các tổ chức bên trong của các bộ thông qua việc chuyển một số cơ quan của chính phủ thành cơ quan hành chính độc lập ngoài bộ hoặc tư nhân hóa. Cụ thể, từ 128 đơn vị cấp vụ, cục và tương đương thuộc các cơ quan hành chính trước đây, nay đã giảm xuống còn 96 đơn vị, từ 1.600 đơn vị cấp phòng và tương đương thuộc các cơ quan, tổ chức này giảm xuống còn 995 đơn vị.
Ba là, thu tục hành chínhđược tinh gián và minh bạch hóa
Tháng 11 - 1993, Nhật Bản đã ban hành Luật Thủ tục hành chính. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để đảm bảo lợi ích của các cá nhân, tổ thúc khi tham gia vào quan hệ hành chính, giúp cho việc giải quyết các thủ tục hành chính đạt hiệu quả hơn. Sự xuất hiện của đạo luật này đã góp phần nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của Nhật Bản, giúp giảm thiểu các thủ tục hành chính và mở rộng cơ hội tiếp cận với các quy định quốc tế trong lĩnh vực hành chính có liên quan.
Tính đến nay, Chính phủ Nhật Bản đã áp dụng khá nhiều giải pháp nhằm giảm bớt các thủ tục hành chính và minh bạch hóa các hoạt động hành chính, chẳng hạn như coi trọng các ý kiến tư vấn, đóng góp của các hiệp hội nghề nghiệp, các nhà chính trị, hành chính và dân chúng về cải cách thủ tục hành chính. Từ năm 2003 đưa vào sử dụng hệ thống thủ tục hành thính không dùng giấy tờ (No-Action-Letter) để giúp cho hoạt động kinh doanh trở nên thuận lợi, hiệu quả hơn, nhất là trong xuất nhập khẩu và đầu tư sử dụng các phương tiện thông tin hiện đại, hệ thống Internet trong giải quyết thủ tục hành chính; cải cách thủ tục hải quan, đặc biệt là mô hình một cửa trong xuất nhập khẩu, thông quan hàng hóa, nhanh chóng chuẩn hóa các thủ tục và tiêu thuần theo thông lệ quốc tế trong kinh tế và các lĩnh vục khác.
Bốnlà,phân quyền và cải cách chính quyền địa phương
Nhật Bản đã tiến hành sắp xếp lại các tỉnh, thành, cơ quan tự quản với mục đích hợp nhất các tỉnh hiện có thành 7 - 9 tiểu bang để cơ cấu lại chính quyền 2 cấp vấn được hình thành từ sau Thế chiến thứ II, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, tạo ra những cơ quan tự quản xử lý các công việc hành chính, “thực hiện dân giàu nước mạnh và đóng góp tích cực cho cộng đồng quốc để”.
Trong thập niên cuối thế kỷ XX, Nhật Bản đã liên tiếp ban hành các văn bản luật về phân quyền địa phương như Nghị quyết về phân quyền của Quốc hội Nhật Bản (1993), Luật Xúc tiến phân quyền địa phương (1995), Luật Tổng hợp về nhân quyền địa phương (1999)... Từ năm 1995 - 1998, Uỷ ban Xúc tiến phân quyền đã đưa ra năm bản kiến nghị về các vấn đề như bãi bỏ chế độ ủy nhiệm nhiệm vụ cho địa phương, sửa lại các quy thế nhằm thu hẹp sự can thiệp của Chính phủ... Luật về phi tập trung hóa toàn diện được quốc hội thông qua và có hiệu lực năm 2000 đã đưa cuộc cải cách theo hướng phi tập trung hóa với khẩu hiệu “từ trung ương về địa phương” và “từ quan chức về người dân”. Tiếp theo đó, chính phủ đã thành lập ủy ban giám sát và thực thi các luật về vấn đề này. Việc phân quyền cho địa phương được thực hiện trên các phương diện chủ yếu sau đây:
Thứ nhất,thúc đẩy quá trình phân công chức năng, nhiệm vụ giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương. Quy định các nguyên tắc mới để kiểm soát sự can thiệp hành chính trên diện rộng của trung ương với chính quyền địa phương, trong đó có ba nguyên tắc cơ bản: sự can thiệp phải dựa trên quy định của pháp luật; ưu tiên tôn trọng luật tự trị địa phương; công bằng, minh bạch. Với chương trình phi tập trung hóa này, vai trò của chính quyền trung ương chỉ giới hạn trong các công việc có liên quan đến sự tồn vong của quốc gia trong mối quan hệ với cộng đồng quốc tế, chính quyền địa phương sẽ thực hiện quyền quản lý, quyết định đối với những công việc hàng ngày liên quan đến đời sống xã hội trên địa bàn hành chính của mình. Theo đó, tính độc lập, tự chủ và sáng tạo của địa phương sẽ được nâng lên, hiệu quả công việc sẽ cao hơn.
Thứ hai,củng cố cơ sở tài chính địa phương để thực hiện tự quản và độc lập về tài chính, hay chính là phân quyền tài chính đầy đủ hơn cho địa phương. Trước đây, theo quy định, các nguồn thu của địa phương đều phải nộp cho trung ương, sau đó trung ương sẽ quyết định phân bổ kinh phí chi tiêu cho địa phương. Trên thực tế, nguồn thu của mỗi địa phương là khác nhau nên dẫn đến tình trạng không công bằng trong việc thu chi, phân bổ tài chính. Hệ quả là không khuyến khích các địa phương tìm cách tăng nguồn thu và sử dụng một cám chủ động, hiệu quả ngân sách nhà nước.Do đó, việc cải cách tài chính công tập trung vào hai nội dung chủ yếu là: cải cách nguồn thu của địa phương và mở rộng quyền tự chủ tài chính cho địa phương, khuyến khích sự sáng tạo tự chủ của địa phương nhằm đảm bảo việc thu - chi có hiệu quả.
Năm là, nâng cao phẩm chất, đạo đức công chức
Chuẩn mực đạo đức trong nền công vụ đã trở thành một nội dung thiết yếu đối với nền hành chính công của Nhật Bản. Từ rất sớm, nhằm góp phần ngăn chặn tệ quan liêu, tham nhũng và sự suy giảm lòng tin của công chúng đối với nền hành chính công, thể chế công vụ Nhật Bản đã được thiết kế hệ thống quản lý đạo đức phù hợp. Theo đó, Chính phủ Nhật Bản đã xây dựng hai đạo luật rất quan trọng liên quan đến công chức là Luật Công chức và Luật Đạo đức công chức. Trên thực tế, phẩm chất, đạo đức và ý thức công dân của công chức, cũng như việc bồi dưỡng, nâng cao phẩm chất, đạo đức công chức là những vấn đề mà Chính phủ Nhật Bản hết sức quan tâm.
Công chức phải tuân thủ những quy định về kỷ luật lao động, kể cả trong và ngoài cơ quan. Trong khi thực thi nhiệm vụ của mình, công chức phải tuân theo các quy định của pháp luật và mệnh lệnh của cấp trên, không được phép có bất cứ hành động nào chống đối hoặc làm tổn thương đến uy tín của chính phủ (chẳng hạn như hành vi lãng công, bãi công, làm lộ bí mật công với chủ mưu, kích động hoặc xúi giục người khác phạm tội...). Ngoại trừ những trường hơn do pháp luật hoặc mệnh lệnh quy định, trong giờ cũng như ngoài giờ làm việc, công chức phải làm tròn trách nhiệm của công việc được giao, không được kiêm nhiệm chức vụ và công việc khác. Công chức không được kiêm nhiệm các chức vụ như lãnh đạo, cố vấn hay quản trị viên cho các công ty hoạt động kinh doanh – thương mại. Trường hợp đặc biệt, phải có đơn xin lãnh đạo cơ quan trực thuộc và được cơ quan nhân sự quốc gia chấp thuận. Hơn nữa, sau khi thôi việc hai năm, công chức không được đảm nhiệm chức vụ nào trong doanh nghiệp có mối quan hệ chặt chẽ với cơ quan nhà nước mà mình đã làm việc trước khi thôi việc.
Luật Đạo đức công chức năm 1999 với 6 chương, 46 điều quy định về đạo đức công chức, trong đó xác định rõ mục đích của việc điều chỉnh pháp luật về đạo đức công chức nhằm góp phần duy trì đạo đức công chức và ngăn chặn nhũng hành vi vi phạm đạo đức của công chức trong hoạt động công vụ. Một trong những nội dung cơ bản của Luật Đạo đức công chức Nhật Bản là quy định cụ thể về vấn đề nhận quà biếu và nghĩa vụ kê khai của công chức đối với quà biếu trong hoạt động công vụ.
Công chức không được đòi hỏi hoặc nhận tiền quyên góp hay những lợi lộc khác từ các đảng phái chính trị hoặc cho các mục tiêu mang tính chất chính trị. Hơn nữa, họ cũng không được can dự vào những hành vi nói trên dù dưới bất cứ hình thức nào và không được có những hành vi chính trị theo quy định của Cơ quan Nhân sự quốc gia, ngoại trừ việc thi hành quyền bầu cử.
3. Một số kinh nghiệm cải cách hành chính ở Nhật Bản
Thứ nhất,về mặt nhận thức, cần tạo ra sự thống nhất cao và rộng rãi trong toàn xã hội về sự cần thiết và mục đích, ý nghĩa của công cuộc cải cách hành chính. Đó là một đòi hỏi mang tính tự thân và tất yếu khách quan của một nền hành chính công, là yếu tố quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn nhất định.
Thứ hai,nhằm đảm bảo tính hiệu quả, cải cách hành chính cần được bắt đầu từ khâu xây dụng thể chế. Cụ thể là không chỉ chủ trương, chính sách mà cả các giải pháp thực hiện phải được "thể chế hóa" theo nguyên tắc nhất quán từ trên xuống nhằm tạo ra cơ sở pháp lý cần thiết trong việc thục hiện các mục tiêu đề ra. Đặc biệt, cần thực hiện nhất quán chính sách phân cấp, coi việc phân cấp mạnh cho chính quyền địa phương là điều kiện phát huy nội lực để thúc đẩy tiến trình cải cách hành chính công.
Thứ ba,coi trọng các giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, đặc biệt là kỹ năng hành chính và đạo đức công chức. Chỉ có như vậy mới bảo đảm cho quá trình xây dựng hình ảnh công chức trở thành hình mẫu của công dân đích thực, để mọi người noi theo.