Bối cảnh lịch sử của quá trình mở đất miền Tây Nam Bộ dưới thời các chúa Nguyễn
Quá trình mở đất miền Tây Nam Bộ dưới thời các chúa Nguyễn được diễn ra qua 4 đời chúa: Nguyễn Phúc Tần (1648-1687), Nguyễn Phúc Chu (1691-1725), Nguyễn Phúc Chú (1725-1738) và Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765), trong bối cảnh tình hình trong nước và khu vực có nhiều yếu tố thuận lợi nhưng cũng nhiều biến động phức tạp đã tác động đến chính sách đối ngoại của các chúa Nguyễn đối với các nước ở phương Nam.
Đây là thời kỳ diễn ra sau cuộc chiến tranh giữa hai thế lực Trịnh - Nguyễn hết sức khốc liệt (1627-1672); cũng là thời kỳ các chúa Nguyễn vươn ra thế giới xây dựng một nền ngoại giao đa phương bao gồm các nước phương Đông (ngoài Trung Quốc) và các nước phương Tây. Tài liệu sưu tầm tại Nhật Bản cho biết, chúa Nguyễn Hoàng lúc trấn nhậm vùng Thuận Quảng, trong các biểu văn ngoại giao đều lấy chức danh Thiên hạ Thống binh Đô nguyên soái Thụy Quốc công-danh nghĩa vua Lê của nước An Namban tặng để giao tiếp với Nhật Bản và các nước (Kawamoto Kuniye, 1991, tr. 169). Sau chiến tranh Trịnh - Nguyễn, chúa Nguyễn Phúc Trăn bắt đầu xưng "An Nam quốc vương"được thể hiện trong một bức thư gửi cho Mạc phủ Đức Xuyên viết vào năm 1688, đề nghị chính quyền Nhật Bản cho nối lại ngoại giao và được mua đồ đồng của Nhật. Sau đó cũng được khẳng định qua nhiều bức thư của chúa Nguyễn Phúc Chu gửi cho chính quyền Nhật Bản (Kawamoto Kuniye, 1991, tr. 176 - 177). Tài liệu của Quốc sử quán triều Nguyễn cũng xác nhận về sự kiện xưng Quốc chúa và đúc ấn Quốc bảo vào tháng 12 năm Kỷ Sửu (tháng 1/1710) như sau: "Mùa đông, tháng 12, ngày Nhâm Dần, đúc Quốc bảo. Sai Lại bộ Đồng tri là Qua Tuệ - thư coi việc chế tạo (Ấn khắc chữ Đại Việt quốc Nguyễn chúa vĩnh trấn chi bảo)" (Quốc sử quán triều Nguyễn, 1962. tr. 170). Quả ấn này được các chúa Nguyễn và vua Nguyễn kế thế lưu truyền.
Tháng 9 năm Canh Dần (1710), chúa Nguyễn Phúc Chu "bắt đầu dùng ấn Long tỷ nhỏ. (Trong ấn khắc 8 chữ Thủ tín thiên hạ văn vũ quyền hành)"(Quốc sử quán triều Nguyễn, 1962, tr. 172). Đến đời chúa Nguyễn Phúc Khoát vào năm 1744, chúa lên ngôi vương và cho đúc ấn Quốc vương (Quốc sử quán triều Nguyễn, 1962, tr. 204, 206).
Mặc dù vẫn dùng niên hiệu nhà Lê, nhưng các chúa Nguyễn dần dần khẳng định vị thế tự chủ về thể chế, độc lập và đối ngoại.
Để đảm bảo sự vẹn toàn lãnh thổ sau chiến tranh và cũng để tăng cường sức mạnh về phòng thủ và kinh tế, các chúa Nguyễn muốn xây dựng một hậu phương bền vững và lâu dài ở phương Nam. Mặt khác, các chúa Nguyễn muốn mở rộng phạm vi lãnh thổ để tạo sinh kế cho nhân dân vùng Thuận Quảng di dân tìm vùng đất mới, màu mỡ về phía nam khi lãnh thổ Đàng Trong đã đến dinh Thái Khang (tức tỉnh Khánh Hòa - từ năm 1653) mà từ cuối thế kỷ XVI dân Việt đã vào sinh sống vùng Bà Rịa, Đồng Nai, Biên Hòa, Sài Gòn... (nay thuộc miền Đông Nam Bộ). Chính sự tiếp cận không gian cư trú này của dân cư người Việt, các chúa Nguyễn rất cần đến một cơ sở pháp lý để đảm bảo sự bền vững của phần đất mới mở và đời sống của nhân dân mà bao đời chúa và nhân dân Thuận Quảng đã đổi bằng máu mới có được.
Nông dân nghèo và địa chủ là lực lượng đang khao khát muốn lập nghiệp ở vùng đất mới và chúa Nguyễn đã thấy đó là động lực lan toả dân cư và phát triển kinh tế để xây dựng Đàng Trong. Trong quá trình xây dựng Đàng Trong, các chúa Nguyễn đã có chính sách tích cực trong việc khai thác các nguồn lực lao động không chỉ có nông dân mà cả tù nhân, tù binh, binh lính trong việc khai phá, xây dựng thôn ấp mới. Đây không chỉ là giải pháp để quản lý lãnh thổ và dân cư mà còn phát triển kinh tế và đảm bảo quốc phòng; nhân lực cũng từ đó mà có, nguồn thuế cũng từ đó để thu, đánh giặc trị an cũng từ đó để phân bổ.
Quan điểm sử dụng tối đa các nguồn lực lao động cho vùng đất mới đã được xác lập từ thời chúa Nguyễn Phúc Lan. Năm 1648, sau khi bắt được ba vạn tù binh quân Trịnh, chúa phân tích: "Hiện nay từ miền Thăng, Điện (tức phủ Thăng Bình và phủ Điện Bàn nay thuộc tỉnh Quảng Nam) trở vào Nam đều là đất cũ của người Chàm, dân cư thưa thớt, nếu đem chúng an tháp vào đất ấy, cấp cho canh ngưu điền khí chia ra từng bộ từng xóm, tính nhân khẩu cấp cho lương ăn để chúng khai khẩn ruộng hoang, thời trong khoảng mấy năm, thuế má thu được có thể đủ giúp quốc dụng và sau hai mươi năm, sinh sản ngày càng nhiều, có thể thêm vào quân số, có gì mà lo về sau!" (Quốc sử quán triều Nguyễn, 1962, tr. 78).
Mở ra Đàng Trong và thực hiện chính sách mở cửa, các chúa Nguyễn bắt đầu giao tiếp với một thế giới rộng lớn hơn trên vị thế của một vương quốc đang hình thành ngày càng khẳng định chủ quyền trên vùng đất mới, nhất là sau thành công của cuộc chiến tranh chống quân Trịnh.
Các cửa biển với nhiều thương cảng ra đời là nơi giao tiếp với thương nhân nhiều nước phương Tây, Nhật Bản, Trung Quốc. Từ thời Nguyễn Hoàng chúa Nguyễn đã hình thành một tư duy chính trị hướng ngoại; một tầm nhìn kinh tế, quân sự, văn hóa về biển. Song song với sự phát triển đất nước theo hướng biển Đông, các chúa Nguyễn càng đẩy mạnh hướng Nam tiến trên lục địa dọc theo duyên hải nên đã tiếp cận với một số nước Champa, Chân Lạp, Xiêm La. ..Tác động của mối quan hệ các nước trong khu vực này đã ảnh hưởng quá trình mở đất ở Tây Nam Bộ cũng như chính sách của chúa Nguyễn đối với người nước ngoài trong đó có người Hoa định cư, sinh sống trên lãnh thổ Đàng Trong.
Cảm nhận về ưu thế đối ngoại trong chính sách mở cửa của chính quyền Đàng Trong, năm 1621, giáo sĩ Christoforo Borri viết: "Chúa Đàng Trong không đóng cửa trước một quốc gia nào, ngài để cho tự do và mở cửa cho tất cả những người ngoại quốc, người Hà Lan cũng tới như những người khác, cùng với tàu chở rất nhiều hàng hóa của họ" (Christoforo Borri, 1998, tr. 192). Do cạnh tranh mang tính thù địch với người Hà Lan, thuyền trường người Bồ Đào Nha là Ferdinand de Costa đã cảnh báo với chúa Nguyễn Phúc Nguyên về âm mưu xâm lược của Hà Lan như họ đã đánh chiếm ở Ấn Độ. Để đẹp lòng người Bồ, chúa Nguyễn đã ra sắc lệnh cấm không cho người Hà Lan đến gần lãnh thổ Đàng Trong, nhưng lệnh cấm đã không được thực thi. Trên thực tế, chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã "cho phép người Hà Lan tới buôn bán trong xứ và mời cả nước Hà Lan tới nữa" (Christoforo Borri, 1998, tr. 193). Như vậy, không những không từ chối việc buôn bán với thương nhân Hà Lan, chúa Nguyễn còn muốn đặt quan hệ ngoại giao với Hà Lan với tư cách hai nhà nước đều có chủ quyền và tôn trọng lợi ích của nhau.
Xác lập được một đường lối đối ngoại mở cửa đúng đắn, phù hợp với xu thế của thời đại làm Đàng Trong không ngừng lớn mạnh, đã làm cho nhiều nước và nhiều người ngoại quốc cảm phục. Giáo sĩ Christoforo Borri có nhận xét: "Phương châm của người Đàng Trong là không bao giờ tỏ ra sợ một nước nào trên thế giới. Thật là hoàn toàn trái ngược với vua Trung Hoa, ông này sợ tất cả, đóng cửa không cho người ngoại quốc vào và không cho phép buôn bán trong nước ông" (Christoforo Borri, 1998, tr. 193).
Đường lối đối ngoại "mở cửa tích cực" của các Chúa Nguyễn mang tính độc lập, tự chủ và sáng tạo này là một bước đột phá không những trong lịch sử Việt Nam mà so với nhiều nước phương Đông hồi bấy giờ làm nâng tầm của chúa Nguyễn sánh vai được với nhiều nước trong khu vực và dự báo về một khả năng đánh bại được cuộc chiến tranh của chúa Trịnh phát động từ Thăng Long. Chúa Nguyễn Phúc Nguyên xây dựng một thế liên minh quốc tế rộng rãi và lớn mạnh để tạo thực lực, chuẩn bị cho cuộc chiến tranh với quân Trịnh.
Trong giới thương nhân nước ngoài, chúa Nguyễn dành nhiều ưu ái cho thương nhân Nhật Bản và Trung Quốc.
Sau một thời gian cấm vận kéo dài giữa nhà Minh của Trung Quốc và chính quyền Mạc phủ Nhật Bản do nạn hải tặc cướp phá; đến năm 1567, triều Minh thực hiện chính sách mở cửa; năm 1592, Mạc phủ cũng bãi bỏ lệnh cấm vận. Đây là cơ hội tốt để thuyền buôn Nhật Bản và Trung Quốc được chính quyền cấp giấy phép đến các cảng khẩu Việt Nam buôn bán, đặc biệt ở Hội An, khi chúa Nguyễn thực hiện chính sách mở cửa đón nhận thương nhân Nhật Bản và Trung Quốc đến buôn bán và lập phố cư trú lâu dài với một cơ chế tự quản đặc biệt. Giáo sĩ Christoforo Borri cho biết: "Chúa Đàng Trong cho người Nhật, người Tàu chọn một địa điểm và nơi thuận tiện để lập một thành phố cho tiện việc buôn bán như chúng tôi đã nói. Thành phố này gọi là Faifo (Hội An). Một thành phố lớn đến độ người ta có thể nói được là có hai thành phố, một phố người Tàu và một phố người Nhật. Mỗi phố có khu vực riêng, có quan cai trị riêng và sống theo tập tục riêng. Người Tàu có luật lệ và phong tục của người Tàu và người Nhật cũng vậy" (Christoforo Borri, 1998, tr. 193).
Phố Nhật và buôn bán của thương nhân Nhật Bản tại Hội An rất thịnh vượng vào nửa đầu thế kỷ XVII. Trong thời gian từ năm 1604 đến 1635, chính quyền Mạc phủ đã cấp 84 Châu ấn thuyền cho thương nhân đến buôn bán các cảng Việt Nam thì có 70 chiếc đến Hội An. Trong 70 thuyền đến Hội An có đến 17 thuyền do con rể của chúa Nguyễn Phúc Nguyên là Araki và con nuôi của Nguyễn Hoàng là Hunamoto cầm đầu (Li Tana, 1999). Nhưng từ sau năm 1635, chính phủ Nhật Bản lại thực hiện chính sách cấm vận, việc buôn bán và dân cư người Nhật sinh sống tại Hội An ngày thưa thớt dần; từ 60 ngôi nhà vào năm 1651, nhưng đến cuối thế kỷ XVII không còn tìm thấy bóng dáng của phố Nhật tại Hội An (Đỗ Bang, 1996, tr. 59).
Từ đầu thế kỷ XVII, Hoa kiều đã đến buôn bán và được chúa Nguyễn cho phép cư trú, lập phố tại Hội An; phố Khách ra đời góp phần sôi động trên thương trường Hội An. Năm 1635, chính quyền Nhật Bản thực hiện chính sách cấm vận thì ở Trung Quốc, người Mãn đã thắng thế, triều đại nhà Thanh thành lập (1636), họ chiếm Bắc Kinh (1644). Năm 1679, nhà Thanh bình định được Quảng Đông và Quảng Tây, năm 1683 chiếm đảo Đài Loan, làn sóng di dân của người Hoa đến Việt Nam và các nước Đông Nam Á từ nửa sau thế kỷ XVII càng sôi động hơn. Đây là sự kiện lịch sử tác động trực tiếp đến hai nhóm cư dân Dương Ngạn Địch và Mạc Cửu đến nhập cư miền Tây Nam Bộ từ năm 1679.
Riêng tại Hội An, vào năm 1695, nhà sư Thích Đại Sán người Trung Hoa đến đây đã cho biết: "Thẳng bờ sông, một con đường dài 3 - 4 dặm, gọi là Đại Đường Nhai. Hai bên đường phố ở liền khít rịt. Chủ phố thảy là người Phúc Kiến, vẫn còn ăn mặc theo lối tiền triều (Thích Đại Sán, 1963, tr. 154).
Đối với Ai Lao ở phía Tây, chúa Nguyễn một mặt xây dựng đồn luỹ kiên cố để bảo vệ biên cương, bảo đảm trị an cho việc đi lại làm ăn, buôn bán. Mặt khác lấy ân uy để thu phục và cảm hóa người phương xa kể cả lúc họ xâm phạm lãnh thổ và an ninh vùng biên giới.
Sử triều Nguyễn ghi lại một sự kiện vào năm 1621: "Bọn thổ mục Lục Hoàn (tức Lạc Hòn) thuộc Ai Lao thả quân qua sông Hiếu sang cướp bóc dân biên thùy. Chúa sai Tôn Thất Hòa (bấy giờ gọi là Quận công) đi đánh. Hòa chia quân phục ở các đường trọng yếu, khiến những lái buôn mua bán đến nhử. Quả nhiên bọn người Man (Lào) đến cướp, kẻo vào cửa động, phục binh nổi dậy, bắt được hết đem về. Chúa muốn lấy ân tín vỗ về người đất xa, sai cởi hết trói ra và cấp cho quần áo lương thực, răn dạy rồi thả về. Quân Man cảm phục, từ đấy không làm phản nữa" (Quốc sử quán triều Nguyễn, 1962, tr. 50). Trước sự quấy phá biên thuỳ, năm sau (1622) chúa Nguyễn cho lập dinh Ai Lao. Sử chép: "Chúa cho rằng sông Hiếu xã Cam Lộ (thuộc huyện Đăng Xương) giáp với đất Ai Lao, các bộ lạc Man Lục Hoàn, Vạn Tượng, Trấn Ninh, Quy Hợp, đều có đường thông đến đấy, bèn sai đặt dinh, mộ dân chia làm 6 thuyền quân để coi giữ, gọi là dinh Ai Lao" (Quốc sử quán triều Nguyễn, 1962, tr. 50).
Thời Nguyễn Hoàng mới làm trấn thủ Thuận - Quảng, biên giới và phía nam chỉ tới Bình Định. Vùng đất tiếp giáp với biên giới của Thuận - Quảng là Phú Yên ngày nay không thể nằm ngoài tầm ngắm của Nguyễn Hoàng, nhất là trong bối cảnh vùng đất này đặt dưới sự kiểm soát lỏng lẻo của nhà nước Hoa Anh nhỏ bé, yếu ớt. Thêm vào đó, Nguyễn Hoàng cũng không muốn ở trong tình trạng vừa phải đối phó với chúa Trịnh ở phía Bắc, vừa phải lo ngại ý định chiếm lại vùng đất Hoa Anh của Champa. Chính vì thế mà Phú Yên trở thành điểm đến đầu tiên trong công cuộc Nam tiến của các chúa Nguyễn.
Việc mở đất vào Phú Yên bắt đầu xúc tiến từ năm 1578, khi Nguyễn Hoàng lấy cớ người Champa tới chiếm lại Hoa Anh (Phú Yên), đã sai Lương Văn Chánh - đang giữ chức An trấn biên huyện Tuy Viễn, tiến quân vào Hoa Anh, tới sông Đà Rằng đối phó với quân Champa. Lương Văn Chánh đã hạ được thành An Nghiệp (thành Hồ) và đẩy quân Champa về địa giới cũ. Lương Văn Chánh chiêu tập lưu dân khai phá đất hoang, dời dân (phần lớn quê từ Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh) tới vùng Cù Mông, Bà Đài và dọc theo sông Đà Rằng, đồng thời chia thôn lập ấp. Công cuộc khai khẩn đất đai, xây dựng thôn xóm ở Phú Yên gắn liền với cuộc đời của Lương Văn Chánh cho đến khi ông mất (1611).
Năm 1611, nhân lúc quân Champa lại quấy phá Hoa Anh, Nguyễn Hoàng đã sai quan Chủ sự là Văn Phong vào Phú Yên đánh dẹp. Vua Champa là Po Nit (1603 - 1613) phải rút về lãnh địa của mình. Với chiến thắng làm này, Nguyễn Hoàng đã lấy hẳn tiểu quốc Hoa Anh và thiết lập nên bộ máy hành chính trên vùng đất này. Đất Hoa Anh được đổi thành phủ Phú Yên, với 2 huyện là Đồng Xuân và Tuy Hòa, do Văn Phong làm Lưu thủ.
Với sự kiện năm 1611, chúa Nguyễn đã có thêm một vùng lãnh thổ mỏi, một đơn vị hành chính mới và hoàn thành bước đi đầu tiên trong sự nghiệp Nam tiến của mình. Lấy được Phú Yên, chúa Nguyễn đã có được vùng đất đứng chân, làm bàn đạp cho những bước mở rộng lãnh thổ về phía nam tiếp theo.
Năm 1629, Văn Phong - Lưu thủ Phú Yên cấu kết với quân Champa làm phản, chúa Nguyễn Phúc Nguyên sai Phó tướng Nguyễn Phúc Vinh vào đánh dẹp và sau đó đổi tên phủ Phú Yên thành dinh Trấn Biên.
Với vùng lãnh thổ mới này, ngoài việc có được một vị trí là phên dậu mới về phía nam của Đàng Trong, chúa Nguyễn đã có nơi đứng chân vững chãi để hướng đến vùng đất phía nam Đèo Cả.
Tuy thất bại trong việc chủ động giành lấy vùng đệm Hoa Anh trước sức mạnh áp đảo của Đàng Trong, nhưng tiểu quốc Champa nhỏ bé vẫn nung nấu ý đồ giành lại vùng đất này, dù có phải tiến hành bằng những cuộc tiến công trong thế yếu. Còn đối với Đàng Trong, trong hoàn cảnh bị thúc ép ngày càng quyết liệt hơn bởi cuộc chiến từ Đàng Ngoài, các chúa Nguyễn vẫn quyết tâm theo đuổi công cuộc mở đất về phía Nam .
Chính vì thế, năm 1653, vua Champa là Bà Tấm đã đem quân ra đánh, đòi lấy đất Phú Yên. Chúa Nguyễn Phúc Tần sai cai cơ là Hùng Lộc Hầu làm Thống binh và sai Minh Võ làm tham mưu đem 3.000 quân vào Phú Yên. Vua Bà Tấm đã phải sai con là Xác Bà Ân đem lễ nộp để xin hàng và được chúa Nguyễn Phúc Tần chấp thuận, với yêu cầu Champa vẫn lệ cống hàng năm và đặc biệt yêu cầu chia lại ranh giới giữa hai bên bằng cách lấy sông Phan Lang làm ranh giới. Theo đó, từ phía tây sông trở vào vẫn thuộc lãnh thổ Champa, phần đất từ phía đông sông Phan Rang trở ra đến địa đầu Phú Yên được đặt làm dinh Thái Khang do Hùng Lộc Hầu trấn giữ (Quốc sử quán triều Nguyễn, 1962, tr. 83). Dinh Thái Khang được chia làm hai phủ là Thái Khang (Ninh Hòa) và Diên Ninh (Diên Hòa).
Như vậy, lãnh thổ của Champa bị thu hẹp, chỉ còn lại phần đất từ sông Phan Lang đến sông Dinh (Hàm Tân, Bình Thuận). Thế và lực của Champa từ đó tiếp tục yếu thêm.
Sau năm 1653 , lãnh thổ của Champa nằm kẹp giữa hai phần lãnh thổ của Đàng Trong, ở phía bắc là phần đất vốn có của chúa Nguyễn (từ Quảng Bình đến Khánh Hòa) và phần đất chúa Nguyễn sáp nhập của Chân Lạp ở phía nam.
Dù yếu thế nhưng tiểu vương quốc Champa vẫn tồn tại yên ổn trong bốn chục năm vào nửa sau thế kỷ XVII. Tuy vậy, Champa vẫn luôn đối đầu với Đàng Trong và tìm cách lấy lại phần đất đã mất mỗi khi có cơ hội. Tháng 8/1692, vua Champa là Bà Tranh đã chủ động thực hiện cuộc tiến công Đàng Trong khi tuyên bố bỏ lệ triều cống và "làm phản, hợp quân, đắp lũy, cướp giết cư dân ở phủ Diên Ninh" (Quốc sử quán triều Nguyễn, 1962, tr. 147).
Tháng 2/1693, Chúa Nguyễn Phúc Chu, vừa mới lên cầm quyền, sau khi được tin báo của dinh Bình Khang tâu lên, đã sai Nguyễn Hữu Cảnh chỉ huy quân đánh thắng Champa, khiến vua Bà Tranh phải bỏ thành chạy trốn và bị bắt. Với kết quả của cuộc chiến tranh như vậy, số mệnh Champa đã được đinh đoạt: vùng lãnh thổ của Champa (từ sông Phan Rang đến Ninh Thuận ngày nay) đã trở thành một đơn vị hành chính của Đàng Trong với tên gọi là Trấn Thuận Thành do một viên quan võ người Việt điều hành và đến năm 1697, chúa Nguyễn Phúc Chu đặt làm phủ Bình Thuận, bao gồm đất của hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận hiện nay.
Có một hiện tượng khá phổ biến diễn ra sau sự kiện năm 1693 là các quý tộc Champa đã dẫn một bộ phận dân chúng vào vùng hạ lưu và trung lưu sông Cửu Long, một số gồm những hậu duệ trực tiếp của vua Champa đưa dân lên vùng thượng nguyên mang theo nhiều di vật của hoàng gia; đã cho thấy sự phản kháng của họ với thiết chế mới lập nên ở phủ Bình Thuận. Mặt khác, tuy tước hiệu phiên vương ở phủ Bình Thuần được duy trì và kế tập qua các đời (11 đời), cho đến năm 1832 dưới triều Minh Mạng, nhưng tên gọi "Champa" hay "Chiêm Thành" không hề còn tồn tại, mà thay vào đó là "Trấn Thuận Thành", là "phủ Bình Thuận".
Như vậy, kể từ sau năm 1697, Champa đã không còn tồn tại với ý nghĩa là một quốc gia độc lập nữa mà trở thành một đơn vị hành chính đặc biệt nhất của Đàng Trong - một phủ có quyền tự trị tương đối và vẫn thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ với chúa Nguyễn.
Bị nước Xiêm bức hiếp, các vua Chân Lạp tiếp nối phải chịu lệ thuộc vào nước láng giềng phía tây thành một hằng số không lối thoát. Vua Paramaraja VII và con bị quản thúc ở Xiêm 10 năm (1594-1603), rồi bị chết trong uất hận vào năm 1619. Kế vị vua cha từ năm 1618, Chey Chetta 11 vốn là một tù nhân của quốc vương Xiêm mong muốn thoát khỏi sự tủi nhục khi bất đắc dĩ phải làm vua một nước bị lệ thuộc nên đã tìm cách kết giao với chúa Nguyễn, từ lúc chúa Nguyễn bắt đầu có ảnh hưởng ở vùng Thuận Quảng.
Một lý do để kết thân là xin làm phò mã của chúa Nguyễn và ý nguyện đó đã được chúa Nguyễn Phúc Nguyên chấp thuận. Con đường hôn nhân không những rút được khoảng cách hai nước mà còn mở rộng luồng di dân an toàn từ vùng Thuận Quảng vào đất Chân Lạp. Công nương Ngọc Vạn xuất hiện trong lịch sử giữa hai vương quốc trở thành giải pháp tối ưu, mở ra một giai đoạn mới trong quan hệ ngoại giao và lịch sử mở nước của chế độ phong kiến Việt Nam.
Mặc dù, Chetta II đã có hai bà vợ người Chân Lạp và người Ai Lao, nhưng đối với Ngọc Vạn, Chetta II luôn sủng ái và được sự quan tâm đặc biệt vì sắc đẹp và đức tính của bà. Ngọc Vạn được phong làm Đệ nhất Hoàng hậu. Sử Chân Lạp gọi bà là Hoàng hậu Ang Cuv.
Để thiết lập mối quan hệ giữa hai vương quốc, một sứ quán của Đàng Trong được ra đời ở kinh đô Udong (Long Úc), hai bên thường xuyên cósứ bộ qua lại giao hiếu làm mối bang giao hai nước ngày càng trở nên mật thiết.
Chính quyền Udong nhận được sự viện trợ vũ khí và quân đội để bảo vệ đất nước của mình, quốc vương Xiêm La vô cùng tức giận nên đã hai lần cho quân tấn công Chân Lạp nhưng đều bị thất bại vào các năm 1622, 1623. Lần đầu tiên nước của Chân Lạp dưới triều vua Chetta II đã bảo vệ được chủ quyền là nhờ sự chi viện của quân đội dưới thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên mà nguyên nhân sâu xa là hệ quả của cuộc hôn nhân hoàng gia vào năm 1620 và vai trò quan trọng của Hoàng hậu Ang Cuv (Ngọc Vạn) trong triều đình Chân Lạp.
Sau một thời kỳ di dân tự phát, từ năm 1620, với đám cưới Ngọc Vạn, vua Chetta II đã đồng ý cho người Việt di dân vào đất Chân Lạp ngày càng đông, làng mạc ra đời ở vùng Bà Rịa, Đồng Nai, Biên Hòa, Sài Gòn, Gia Định... Ở đây đã hình thành những khu dân cư mới, lực lượng mới mà vua Chân Lạp cần liên minh để chống quân Xiêm.
Năm 1623, chúa Nguyễn Phúc Nguyên cử một sứ bộ mang theo nhiều tặng phẩm đến Udong để khẳng định sự ủng hộ và sự gắn bó của phủ chúa ở Dinh Cát (Quảng Trị) đối với vua Chetta II.
Để quản lý và thu thuế số người Việt di dân vào vùng miền Đông Nam Bộ, năm 1623, vua Chetta II đã chấp thuận cho chúa Nguyễn đặt trạm thu thuế tại Prey Nokor. Từ đó, bộ máy chính quyền của chúa Nguyễn manh nha ra đời ở đất Nam Bộ.
Năm 1624, Hoàng hậu Ang Cuv sinh được công chúa Ang Na Ksatri, được vua cha rất yêu quý. Đến năm 1628, Chetta II qua đời, Ngọc Vạn (Ang Cuv) trở thành Thái hậu dưới các triều vua kế tiếp.
Kế vị Chetta II là các vua trẻ tầm thường nên đã gây cho triều đình Chân Lạp quá nhiều biến động và mâu thuẫn do tranh chấp quyền lực, nhiều vua bị giết hoặc chết không bình thường dẫn đến nguy cơ một cuộc khủng hoảng triều chính không tìm được lối thoát nếu như không có vai trò của Thái hậu Ang Cuv. Với sự thông minh, tài năng, uy tín và đức độ. Ang Cuv đã thu phục được các phe phái, tiếp tục giữ một vai trò quan trọng trong việc triều chính, góp phần làm hạn chế những tổn thất trong việc dùng võ lực để tranh chấp quyền bính.
Năm 1640, Ang Nam lên ngôi vua đã cưới công chúa Ang Na Ksatri (con gái của Thái hậu Ang Cuv) làm vợ. Ang Na Ksatri được phong làm Hoàng hậu.
Ang Nam làm vua được hai năm thì bị Nặc Ông Chân giết để cướp ngôi và nhiều vụ tàn sát đẫm máu trong hoàng cung liên tiếp xảy ra làm dân chúng oán ghét.
Năm 1658, Nặc Ông Xô và Nặc Ông Tân (Ang Tan) là hai hoàng thân cầm đầu một cuộc đảo chính nhưng không thành nên đã đến gặp Thái hậu Ang Cuv, với mong muốn thông qua bà để nhờ chúa Nguyễn cứu giúp. Bà đã gửi thư cho chúa Nguyễn Phúc Tần (gọi Ngọc Vạn bằng cô) để được giúp đỡ. Chúa Nguyễn Phúc Tần đã cử Phó tướng dinh Trấn Biên là Tôn Thất Yến, Cai đội Xuân Thắng, Tham mưu Minh Lộc... đem 3.000 quân tiến đánh thành Hưng Phúc ở Mô Xoài (Mỗi Xuy) bắt được Nặc Ông Chân đưa về, Chúa tha tội và cho hộ tống về nước (Quốc sử quán triều Nguyễn, 1962, tr. 98). Không may trên đường về nước, Nặc Ông Chân bị lâm bệnh và qua đời vào năm 1659.
Ang Sur lên nối ngôi chịu thần phục chúa Đàng Trong, với sự bảo trợ của Thái hậu Ang Cuv; nhờ thiện chí của nhà vua nên người Việt di dân vào đất Chân Lạp ngày càng đông.
Tù năm 1672 , triều đình Udong có quá nhiều biến động, cung điện hoàng gia trở nên bãi chiến trường tàn khốc do các cuộc tranh chấp ngôi vị. Năm 1674, chúa Nguyễn Phúc Tần cử Dương Lâm đem quân sang cứu giúp Nặc Nộn (Ang Nan), chiếm được thành Sài Gòn, tiến lên Nam Vang. Nặc Ông Đài theo Xiêm La làm phản, bỏ chạy, Nặc Thu xin hàng. Nặc Thu là dòng đích (con của vua Ang Sur) được chúa Nguyễn phong làm vua chính đóng ở thành Udong, còn Nặc Nộn là vua thứ nhì (con nuôi của vua Ang Tan) đóng ở thành Sài Gòn (Quốc sử quán triều Nguyễn, 1962, tr. 122). Nhưng không thấy sử nói đến vai trò của Thái hậu Ang Cuv (Ngọc Vạn), có lẽ Bà đã qua đời sau hơn nửa thế kỷ làm Hoàng hậu và Thái hậu trong triều đình Chân Lạp, đã để lại rất nhiều thành quả cho công cuộc mở đất, phát triển mối quan hệ giữa hai vương quốc Đàng Trong và Chân Lạp.