Bí quyết để sống đến 100 tuổi
Một lối sống lành mạnh
Sống khoan hồng, rộng lượng để tinh thần thoải mái, thư giãn 20 phút mỗi ngày, giúp tăng sức đề kháng chống lại nhiễm trùng và làm giảm huyết áp.
Đừng để mất ngủ ban đêm và nên có giấc ngủ trưa 30 phút mỗi ngày.
Tránh các trường hợp bất bình, nổi nóng: vì sự giận dữ làm tăng nguy cơ bệnh tim mạch.
Khi có tuổi, chơi cờ tướng, cờ vua,… sẽ kích thích hoạt động thần kinh. Đừng quá lo lắng khi tuổi già đang đến. Dành thời gian chăm sóc cây cảnh hoặc nuôi một con vật yêu thích sẽ làm tăng lượng serotonin, oxytocin và prolactin – là 3 hormon chống tình trạng trầm cảm.
Cuộc sống hạnh phúc giúp tăng cường sức khoẻ: 90% người không sống gần mẹ sẽ bị tình trạng bệnh nghiêm trọng ở tuổi trung niên so với 45% người sống gần gũi với mẹ; hôn nhân hạnh phúc sẽ kéo dài tuổi thọ, những người ly dị và tái giá dễ bị đột tử hơn.
Trước một chuyến du lịch, cần tìm hiểu nơi đến có bệnh nguy hiểm nào không để tiêm phòng hoặc dùng thuốc ngừa.
Theo dõi hoạt động của ruột, khi có bất kỳ khó chịu nào về hoạt động tiêu hóa - nhất là khi đi tiêu ra máu – thì phải đến ngay bác sĩ nhằm loại bỏ chứng ung thư đại tràng. Kiểm tra tình trạng răng miệng định kỳ.
Một chế độ vận động thích hợp
Tập thể dục trước bữa ăn giúp tiêu thụ lượng mỡ thừa, tránh được nguy cơ tim mạch do rối loạn mỡ máu. Đi bộ giúp giảm tình trạng đột quị tim. Đi làm bằng xe buýt để đi bộ đến trạm xe và trở về.
Giảm vòng eo vì số đo vòng eo tỷ lệ thuận với nguy cơ tim mạch và tỉ lệ nghịch với tuổi thọ.
Một chế độ ăn uống thích hợp
- Vói nguồn năng lượng như nhau, chia nhỏ thành 5-6 bữa ăn mỗi ngày thì giảm 5% cholesterol so với ăn 2 bữa.
- Đậu nành có tác dụng chống ung thư và bệnh tim mạch, nên ăn đậu phụ và uống sữa đậu nành.
- Thức ăn biển, nhất là rong biển, chứa iod hữu cơ, tốt cho tuyến giáp. Ăn ít nếu bị dị ứng.
- Đậu (đỗ) giúp ổn định đường huyết, giảm nguy cơ đái tháo đường.
- Mỗi tuần nên ăn một lần nghêu, sò, ốc, hế, hàu vì chúng chứa nhiềm kẽm nhất trong các loại thức ăn; các loại cá béo, cá mòi chứa nhiều acid béo cần thiết cho hệ miễn dịch.
- Gừng làm chậm tiến triển của ung thư đại tràng, tỏi chứa sulphur giúp phòng chống bệnh nhiễm khuẩn và virus, hành giúp cho sự khoẻ mạnh của bộ xương, nghệ là chất chống viêm và chống oxy hoá mạnh.
- Bông cải chứa nhiều vitamin B, sắt, sulforaphan giúp phá huỷ các chất gây ung thư.
- Ăn nhiều các loại rau củ quả màu đỏ, cam, vàng vì chứa nhiều caroten và flavonoid có tác dụng chống lão hoá, ngừa ung thư. Cà chua chứa nhiều lycopen, một chất chống oxy hoá mạnh giúp giảm nguy cơ ung thư và bệnh tim.
- Các dầu đậu nành (Đỗ tương), Vừng (mè), Ôliu (chất béo không bão hoà) giúp giảm nguy cơ tim mạch, giảm cholesterol.
- Mật ong chứa các chất chống oxy hoá giúp chống lại bệnh tim mạch, nên dùng thay đường.
- Hạn chế thịt hun khói, thịt nướng vì chứa nhiều muối và nhiều hoá chất có thể gây ung thư.
- Chọn trái cây tươi hơn loại đóng hộp vì còn đầy đủ các vitamin B1, B2, C.
- Uống trà xanh mỗi ngày sẽ giảm nguy cơ tăng huyết áp 50%.
- Không nên uống nhiều cà phê, uống trên 4 tách cà phê mỗi ngày sẽ tăng 11% mức homocystein trong máu (đây là chất gây nguy hại cho tim mạch).
- Dùng chảo thép không rỉ để chế biến thức ăn sẽ tốt hơn chảo không dính vì không làm mất vitamin C.
Sử dụng thêm một số chất bổ sung
Khẩu phần ăn hàng ngày đủ lượng vitamin E giúp tăng cường miễn dịch và chống lão hoá. Cần có đủ acid folic để giảm nguy cơ tim mạch.
Bổ sung selinium, là một vi chất liên quan đến thụ thai, tạo hormon và tăng trưởng cơ thể.
Glucosamin giúp xương và mô khoẻ mạnh.
Ánh nắng tạo vitamin D cho cơ thể, giúp chống lại ung thư vú và đại tràng, duy trì sự khoẻ mạnh của xương và da.
Riêng đối với phụ nữ
Mỗi năm nên làm phết âm đạo một lần. Phụ nữ trong độ tuổi 50-59 nên chụp nhũ ảnh 2 năm một lầ. Nếu phát hiện ung thư tuyến vú sẽ có phương pháp điều trị hiệu quả hơn. Nuôi con bằng sữa mẹ giúp làm giảm nguy cơ ung thư vú 7%.
Ăn đủ lượng calci giúp xương vững chắc, lượng cailci cần cho một phụ nữ là 800-1.000mg/ngày.
Không nên dùng quá nhiều các vitamin, không dùng quá 2.500 đơn vị vitamin A mỗi ngày vì làm tăng nguy cơ gãy xương đùi.
Nguồn: Thuốc & Sức khoẻ, số 300-301, 15/1-1/2/2006







