Bảo tồn, quản lý và sử dụng đất ngập nước ở Việt Nam: Gióng lên tiếng chuông cảnh báo
Khả năng của đất ngập nước
ĐNN là một trong những hệ sinh thái sản xuất hiệu quả nhất và là nơi che chắn cho hành tinh khỏi những hậu quả tồi tệ nhất của môi trường. ĐNN có mối liên hệ đến xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế xã hội, an ninh lương thực, nước và sự bền vững của môi trường. Đây cũng là là nơi chứa đựng một số lượng lớn các loài động thực vật, là một phần quan trọng của đa dạng sinh học toàn cầu. Ngoài những vai trò trên, ĐNN ở Việt Nam còn là nơi trữ nước, điều hòa lượng mưa và dòng chảy. Nhiều vùng ĐNN, đặc biệt là rừng ngập mặn, rạn san hô và thảm cỏ biển là môi trường thuận lợi để nhiều loài động vật hoang dã đẻ trứng, nuôi dưỡng, để thực vật sinh trưởng. ĐNN của Việt Nam được coi là nguồn gốc của văn minh lúa nước, cung cấp nguồn thức ăn lớn cho con người. Tài nguyên này hiện nay còn giúp Việt Nam phát triển kinh tế du lịch.
ĐNN vùng ven biển Việt Nam được chia thành 6 tiểu vùng duyên hải khác nhau dọc theo bờ biển: từ Móng Cái đến Đồ Sơn, Đồ Sơn đến cửa sông Lạch Trường, cửa sông Lạch Trường đến mũi Hải Vân, mũi Hải Vân đến mũi Hồ Tràm, mũi Hồ Tràm đến mũi Gành Rái, Mũi Gành Rái đến Hà Tiên. Ở mỗi tiểu vùng duyên hải, đang bộc lộ trình trạng sử dụng thiếu phù hợp và quản lý không theo quy hoạch tài nguyên ĐNN. Ngoài raViệt Nam còn có 68 khu ĐNN nội địa và ven biển, với diện tích khoảng hơn 10 triệu ha, trong đó có nhiều khu ĐNN có tầm quan trọng quốc tế như: Hồ Ba Bể (Vườn quốc gia Ba Bể), khu cửa sông Hồng Tiền Hải, U Minh Thượng, mũi Cà Mau và khu ĐNN Côn Đảo…
Thực trạng quản lý và sự quản lý bảo vệ giữ gìn đất ngập nước
Ông Lê Thanh Bình, Tổng cục Môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) cho biết, cũng giống như các nước ở châu Á các vùng ĐNN ở Việt Nam lại là hệ sinh thái bị đe dọa nhiều nhất, đang gánh chịu những tổn thất lớn nhất từ năm 1980 đến nay chủ yếu là do những thay đổi trong sử dụng đất. Việt Nam chưa có đánh giá tổng thể và chưa thể cập nhật thông tin về hiện trạng ĐNN. Khung pháp lý về bảo tồn ĐNN chưa hoàn chỉnh, đầu tư cho bảo tồn, sử dụng và quản lý ĐNN chưa xứng với giá trị và tiềm năng của tài nguyên này. Còn theo GS.TS Mai Trọng Nhuận, Giám đốc trường Đại học Quốc gia Hà Nội, với một vấn đề mang tính liên vùng như ĐNN, một quốc gia không thể tự giải quyết được, mà cần sự chia sẻ của cả một cộng đồng. Đó là lý do cần gióng tiếng chuông cảnh báo về bảo tồn sử dụng ĐNN ở Việt Nam và châu lục.
Theo các nhà khoa học, tương lai của ĐNN phụ thuộc vào khả năng và nỗ lực trong việc áp dụng các cách tiếp cận quản lý, lồng ghép công tác bảo tồn và sử dụng hợp lý nguồn ĐNN vào quy hoạch bền vững của tất cả các ngành kinh tế. Việc làm cấp thiết hiện nay là phải hành động ngay nhằm giữ gìn ĐNN. Trong đó, khôi phục môi trường suy thoái vùng ĐNN ven biển, đô thị và vùng nước ngọt nhằm chống lại sự đe doạ của các loại bệnh truyền nhiễm đang nổi lên như cúm gia cầm và bệnh sốt rét. Quy hoạch vùng ĐNN có sự tham gia của cộng đồng không chỉ trong công tác quản lý ĐNN mà còn trong quản lý sức khoẻ môi trường và trong quá trình ra quyết định và thực hiện quản lý. Kết hợp tổng hợp kiến thức và khoa học kỹ thuật về sinh thái nhằm xây dựng và triển khai tốt các công cụ bảo vệ các vùng ĐNN đang bị đe doạ, đánh giá tài nguyên thiên nhiên và khoanh vùng sử dụng đất, thiết kế cơ sở hạ tầng thân thiện với hệ sinh thái và các hệ thống theo dõi hệ sinh thái. Phục hồi canh tác sinh thái trong vùng ĐNN để thúc đẩy sản xuất lương thực của tự nhiên nhằm tìm ra phương thức sản xuất nông nghiệp lành mạnh hơn để bảo vệ và nuôi dưỡng môi trường ĐNN. Liên kết các sáng kiến phát triển với các mục tiêu bảo tồn đa dạng sinh học nhằm cùng lúc nâng cao chất lượng cuộc sống và chất lượng môi trường ĐNN, chú trọng đến các mục tiêu cải thiện sinh kế nông thôn song song với việc bảo tồn đa dạng sinh học một cách có quy hoạch và phối hợp chặt chẽ. Cần tìm ra các phương pháp bảo tồn, khôi phục và sử dụng hợp lý tài nguyên ĐNN cần thiết, hiệu quả, tiết kiệm chi phí với mục tiêu giảm nhẹ tác động của biến đổi khí hậu lâu dài, đề ra quy định về việc lồng ghép hay tổng hợp các thông tin về biến đổi khí hậu vào các quy hoạch.
Nguồn: T/c Kinh tế sinh thái, số 25, 2008, tr 42








