Báo cáo của Hội đồng TW tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Trong nǎm nǎm qua, kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, trên đất nước ta đã diễn ra những biến đổi sâu sắc. Nước ta đã thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội và chuyển sang thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng (6/1996) chỉ rõ mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, vǎn minh, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) (12/1996) đã thông qua Nghị quyết về "Định hướng chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và nhiệm vụ đến nǎm 2000", trong đó khẳng định: Cùng với giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế - xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Những vǎn kiện trên đây của Đảng và Nhà nước đã tạo nên cơ sở vững chắc cho các hoạt động phong phú và đa dạng của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam và các hội thành viên.
Báo cáo này của Hội đồng trung ương trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV bao gồm các phần sau đây:
1- Tình hình và kết quả hoạt động 5 nǎm (1993 - 1998);
2- Phương hướng hoạt động của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và những nhiệm vụ cơ bản cho nhiệm kỳ IV (1999 - 2004).
Phần I
TÌNH HÌNH VÀ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG 5 NĂM
(1993 - 1998)
Dưới ánh sáng đường lối đổi mới của Đảng, trong nhiệm kỳ vừa qua (1993 - 1998) Liên hiệp hội đã trải qua một quá trình phát triển về xây dựng tổ chức, tập hợp và đoàn kết trí thức, điều hoà và phối hợp hoạt động của các hội thành viên. Trong phần này, Hội đồng Trung ương xin trình Đại hội một cách vắn tắt tình hình và kết quả hoạt động chủ yếu trong 5 nǎm qua. (Những nội dung chi tiết được giới thiệu trong các phụ lục đính kèm).
I - Củng cố và phát triển tổ chức:
Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản Việt Nam đã tạo cho các nhà khoa học và công nghệ nước nhà những điều kiện thuận lợi mới để tập hợp và đoàn kết lại trong các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, cùng nhau phấn đấu cho sự phát triển của khoa học, công nghệ, góp phần xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Với việc kết nạp thêm 6 hội khoa học và kỹ thuật mới, số lượng thành viên của Liên hiệp hội ở Trung ương đã tǎng từ 34 lên 40 hội.
Việc phát triển tổ chức hội khoa học và kỹ thuật địa phương có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc truyền bá kiến thức và đưa khoa học và công nghệ vào đời sống xã hội, nhất là ở địa bàn nông nghiệp và nông thôn. Liên hiệp hội đã tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh cuộc hội nghị Hội đồng Trung ương mở rộng các tỉnh phía Nam và tại thành phố Đà Nẵng hội nghị về "Tổ chức và hoạt động của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật tỉnh, thành phố". Lãnh đạo Liên hiệp hội cũng đã làm việc với lãnh đạo nhiều tỉnh về việc thành lập liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật địa phương. Cùng với quá trình tách các tỉnh cũng đã xuất hiện thêm một số liên hiệp hội mới. Sự gia tǎng số lượng các liên hiệp hội địa phương từ 8 lên 23 là một kết quả rất đáng phấn khởi. Ở nhiều tỉnh, các ban vận động đang tích cực chuẩn bị cho việc thành lập trong nǎm nay một số liên hiệp hội địa phương mới.
Trong nhiệm kỳ vừa qua, lần đầu tiên mạng lưới các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam phát triển ra cả nước ngoài với việc thành lập Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam tại Liên bang Nga (12/1993). Các nhà khoa học và công nghệ Việt Nam định cư ở một số nước khác cũng đang tích cực chuẩn bị thành lập các tổ chức nghề nghiệp của mình để đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau và cùng nhau hướng về Tổ quốc, đóng góp cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá nước nhà.
Sự phát triển tổ chức của các hội thành viên được đẩy mạnh thêm một bước theo cả hai hướng: Tiếp tục tổ chức các hội chuyên ngành hoặc phân hội mới trong từng hội và thành lập thêm các chi hội địa phương. Việc thành lập các tổ chức hội đã trở thành nhu cầu của các nhà khoa học và công nghệ và là xu thế khách quan của sự phát triển kinh tế - xã hội nước nhà trong thời kỳ đổi mới. Phần đông các hội khoa học và kỹ thuật đã hoạt động có hiệu quả, góp phần giữ vững ổn định chính trị, xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Do đã đạt được những thành tích đáng khích lệ trong các hoạt động khoa học - công nghệ. Hội Luật gia Việt Nam đã được Nhà nước trao tặng Huân chương Độc lập hạng Nhất, Hội Những người làm vườn Việt Nam, Hội Khoa học và Công nghệ Mỏ Việt Nam, Hội khoa học và kỹ thuật Xây dựng Việt Nam và Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Hà Nội đã được Nhà nước trao tặng các Huân chương Lao động hạng hai, hạng ba.
Bên cạnh đó, sự phát triển tổ chức của Liên hiệp hội và các hội thành viên cũng bộc lộ một số vấn đề cần được giải quyết. Vị trí, tính chất của Liên hiệp hội được khẳng định từ lâu trong các vǎn kiện quan trọng của Đảng, nhưng chưa được thể chế hoá về mặt Nhà nước. Hệ thống tổ chức còn có những điểm chưa hợp lý. Mối quan hệ giữa Hội đồng Trung ương và Đoàn Chủ tịch Hội đồng Trung ương với các hội thành viên chưa được xác định một cách rõ ràng và cụ thể làm ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác tập hợp, đoàn kết và điều hoà phối hợp, lực lượng trí thức trẻ tham gia hoạt động hội chưa nhiều. Mặt khác, cho đến nay vẫn chưa có những tiêu chí nhất quán đối với việc thành lập một hội khoa học và kỹ thuật mới hoặc đối với việc xác định một hội là thành viên của Liên hiệp hội. Trong số 61 tỉnh, thành phố trong cả nước, mới chỉ có 23 liên hiệp hội địa phương, tức là khoảng 39%. Một số hội thành viên còn lúng túng về phương thức và nội dung hoạt động, hiệu quả chưa đều và thiếu sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng. Cơ cấu tổ chức và cơ chế quản lý hoạt động thiếu chặt chẽ cũng đã dẫn đến một số sơ hở đáng tiếc. Do chưa có vǎn bản chính thức của Chính phủ về thể chế hoá vai trò, vị trí, chức nǎng và nhiệm vụ của các hội khoa học và kỹ thuật trong hệ thống chính trị của đất nước nên nhiều hội, đặc biệt là các Liên hiệp hội địa phương, gặp nhiều khó khǎn trong hoạt động.
Thực hiện Nghị định số 35 - HĐBT ngày 27/1/1992 của Hội đồng Bộ trưởng về công tác quản lý khoa học và công nghệ, Liên hiệp hội và các hội thành viên đã thành lập hơn một trǎm đơn vị trực thuộc, trong đó Liên hiệp hội có trên 40 đơn vị. Mặc dù không nhận được sự đầu tư hoặc tài trợ của Nhà nước, nhưng nhiều đơn vị đã hoạt động ngày càng có kết quả. Tuy nhiên, nhìn chung, việc thành lập và quản lý các tổ chức này còn thiếu định hướng rõ ràng và đang còn mang nặng tính tự phát. Điều lệ và quy chế hoạt động của một số đơn vị còn thiếu chặt chẽ, dẫn đến sự phát triển tổ chức tuỳ tiện, gây khó khǎn cho công tác quản lý. Đã có 6 đơn vị hoạt động không có kết quả và một đơn vị vi phạm pháp luật bị giải thể.
II - Hoạt động chính trị - xã hội:
Nằm trong khối liên minh chiến lược "Công nhân - Nông dân - Trí thức", Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam có vị trí và vai trò ngày càng quan trọng. Hoạt động chính trị - xã hội của Liên hiệp hội thể hiện trước hết ở việc trực tiếp tham gia soạn thảo hoặc đóng góp ý kiến cho các vǎn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước, các dự luật, chiến lược phát triển, các dự án lớn về kinh tế - xã hội hoặc khoa học - công nghệ. Nhiều quan điểm của các nhà khoa học phát biểu thông qua Liên hiệp hội đã được lắng nghe và đánh giá cao.
Liên hiệp hội và các hội thành viên luôn luôn theo sát và tích cực hưởng ứng các sự kiện quan trọng trong đời sống chính trị nước nhà, như kỷ niệm lần thứ 65 ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam với hội thảo "Trí thức Việt Nam với sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo", kỷ niệm lần thứ 50 Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2-9 với hội thảo "Cách mạng tháng Tám và Sử học Việt Nam", tổ chức cho giới trí thức nghiên cứu quán triệt đường lối quan điểm của Đảng, tham gia xây dựng các bản dự thảo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 về công tác giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, tổ chức góp ý vào dự thảo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 về nhiệm vụ "Đẩy mạnh tiến trình đổi mới toàn diện và đồng bộ, phấn đấu thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đến nǎm 2000", xây dựng bản báo cáo về đổi mới khoa học và công nghệ trong các doanh nghiệp và sau đó trình bày tại các cuộc họp của Thủ tướng Chính phủ với đại diện các nhà khoa học và các doanh nghiệp tổ chức tại thủ đô Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Đà Nẵng, tham gia xây dựng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ đến nǎm 2020 v.v...
Là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Liên hiệp hội đã tích cực tham gia các hoạt động bầu cử đại biểu Quốc hội khoá X. Trong số chín ứng cử viên do Liên hiệp hội và các hội thành viên giới thiệu đã có bảy người được bầu vào Quốc hội khoá X. Ngoài ra, Liên hiệp hội Hà Nội có bốn thành viên và Liên hiệp hội thành phố Hồ Chí Minh cũng có một thành viên được bầu vào Quốc hội khoá này. Đó là chưa kể trong số các đại biểu Quốc hội còn có nhiều nhà khoa học khác là các đồng chí lãnh đạo của các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam.
Trong hoạt động chính trị - xã hội, Liên hiệp hội rất coi trọng sự hợp tác với các cơ quan của Nhà nước và các tổ chức khác. Lần đầu tiên, "Chương trình phối hợp tập hợp và phát huy tối đa tiềm lực trí tuệ của đội ngũ khoa học - công nghệ thuộc mọi thành phần kinh tế" đã được ký kết giữa Liên hiệp hội và Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường ngày 25/12/1995 tại Hà Nội. Trải qua hơn ba nǎm thực hiện, chương trình đã phát huy tác dụng rõ rệt thông qua nhiều hoạt động chung giữa hai cơ quan, đặc biệt như đề tài nghiên cứu "Thực trạng đội ngũ trí thức Việt Nam", Hội nghị "Báo cáo tình hình và kết quả triển khai chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 về khoa học và công nghệ". Liên hiệp hội cũng đã ký kết các bản thoả thuận hợp tác với Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam, Bộ Công nghiệp và Ban chỉ đạo quốc gia về cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường. Ngoài ra, Liên hiệp hội còn hợp tác chặt chẽ với Ủy ban Dân tộc và Miền núi và Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài để giải quyết nhiều vấn đề chung. Trong thời gian tới, chúng ta cần mở rộng quan hệ hợp tác với các ban, ngành và tổ chức khác, đặc biệt là với các đoàn thể chính trị - xã hội.
Trong nhiệm kỳ vừa qua, Liên hiệp hội đã có nhiều hoạt động tôn vinh các danh nhân vǎn hoá, khoa học của dân tộc, như tổ chức hội nghị thông báo khoa học nhân ngày giỗ lần thứ 100 cụ Phan Đình Phùng, lễ tưởng niệm Giáo sư Hoàng Xuân Hãn, lễ chúc mừng các nhà khoa học đầu tiên được nhận phần thưởng cao quý của Nhà nước về khoa học và công nghệ - Giải thưởng Hồ Chí Minh - là các giáo sư Trần Đại Nghĩa, Nguyễn Xiển, Trần Vǎn Giàu, Vũ Khiêu, Hồ Tôn Trinh, Đinh Gia Khánh, Nguyễn Vǎn Hưởng, Trương Công Quyền, Đỗ Tất Lợi, Hoàng Tích Mịnh, Hoàng Tụy, Nguyễn Vǎn Hiệu, Lê Tâm, Bùi Huy Đáp.
Khi giáo sư Trần Đại Nghĩa, Chủ tịch danh dự của Liên hiệp hội từ trần, nhiều đoàn đại biểu của Liên hiệp hội và các hội thành viên đã đến viếng, tham gia tổ chức trọng thể lễ truy điệu tại Hà Nội và lễ tang tại thành phố Hồ Chí Minh.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Liên hiệp hội và các hội thành viên đã huy động được gần 200 triệu đồng để giúp đỡ các gia đình có công với Cách mạng, ủng hộ đồng bào các vùng lũ, lụt, bão tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và nhân dân Cu Ba anh em.
Tuy nhiên, sự tham gia của các hội thành viên chưa đều, chưa tận dụng được triệt để tiềm nǎng trí tuệ của đội ngũ đông đảo các nhà khoa học và công nghệ phục vụ hữu hiệu nhiệm vụ chính trị chung của đất nước.
Từ Đại hội VII của Đảng (1991), trong nhiều vǎn kiện chính thức của Đảng, tầng lớp trí thức được xác định là một trong ba lực lượng hợp thành khối liên minh công, nông, trí do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam được xác định là tổ chức chính trị - xã hội của trí thức Việt Nam. Tuy vậy, trong các chính sách cụ thể của Nhà nước, Liên hiệp hội chưa được đối xử tương xứng với vị trí đã được xác định và cũng chưa tương xứng với các tổ chức chính trị - xã hội khác.
Tình hình đó ảnh hưởng không nhỏ đến việc Liên hiệp hội phát huy vai trò tích cực của mình trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cũng như đến tâm tư của anh chị em trí thức.
Tuy nhiên các hoạt động chính trị - xã hội của các hội khoa học và kỹ thuật được thể hiện đầy đủ và rõ nhất trong việc tích cực tham gia quá trình đổi mới của đất nước thông qua việc thực hiện những nhiệm vụ chính trị của mình.
III - Phổ biến kiến thức khoa học và kỹ thuật cho quần chúng
Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Liên hiệp hội và các hội thành viên luôn luôn xem việc phổ biến kiến thức khoa học và kỹ thuật cho quần chúng nhân dân là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu.
Với tinh thần đổi mới, Báo Khoa học và Đời sống được cải tiến thêm một bước quan trọng cả về mội dung và hình thức, góp phần tích cực vào việc phổ biến kiến thức khoa học và kỹ thuật cho quần chúng. Sau khi được củng cố về mặt tổ chức, Tạp chí Khoa học và Tổ quốc từ chỗ mỗi tháng một kỳ đã chuyển sang xuất bản mỗi tháng hai kỳ và bước đầu có tiến bộ cả về nội dung và hình thức. Công tác báo chí của các hội thành viên cũng có bước phát triển mới. Ở Trung ương hơn 10 tờ báo và tạp chí đã được cấp lại giấy phép xuất bản, trong khi đó 13 tạp chí và bản tin mới cũng đã được ra mắt bạn đọc. Ở các tỉnh và thành phố cần kể đến trước hết là Báo Khoa học phổ thông của Liên hiệp hội thành phố Hồ Chí Minh và các tạp chí của Liên hiệp hội Đà Nẵng, Thừa Thiên - Huế, Lâm Đồng... Tháng 6/1995, Liên hiệp hội phối hợp với Hội Nhà báo Việt Nam tổ chức thành công cuộc hội thảo đầu tiên về báo chí khoa học ở nước ta với chủ đề: "Báo chí khoa học vì sự nghiệp đổi mới và hiện đại hoá đất nước" với sự tham dự của trên 120 đại biểu thay mặt cho gần 60 tờ báo, tạp chí, nội san, bản tin của Liên hiệp hội và các hội thành viên, tức là khoảng 1/3 tổng số các báo chí khoa học phát hành trên phạm vi cả nước. Bên cạnh báo chí, các tổ chức hội khoa học và kỹ thuật còn xuất bản được nhiều đầu sách có giá trị.
Một hình thức quan trọng và hữu hiệu khác để phổ biến kiến thức khoa học và kỹ thuật cho quần chúng là mạng lưới rộng khắp bao gồm hơn 40 câu lạc bộ của Liên hiệp hội và các hội thành viên thu hút khoảng 11 nghìn hội viên. Câu lạc bộ Thời sự - Khoa học tại cơ quan thường trực Liên hiệp hội vẫn sinh hoạt đều đặn hàng tuần với tổ chức chặt chẽ, chương trình và nội dung phong phú, mỗi buổi có từ 50 - 80 người tham dự. Nhiều hội thành viên khác cũng duy trì được đều đặn hoạt động của các câu lạc bộ khoa học, ngoại ngữ, dưỡng sinh.
Chào mừng Hội nghị cấp cao lần thứ bảy các nước có sử dụng tiếng Pháp, Liên hiệp hội phối hợp với cơ quan hợp tác vǎn hoá, khoa học và kỹ thuật Đại sứ quán Pháp tại Hà Nội đã tổ chức triển lãm "Hình ảnh khoa học" tại bảo tàng Hồ Chí Minh từ 22/9 đến 5/10/1997 với những hình ảnh về các lĩnh vực viễn thám, bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai...
Qua 5 nǎm, chúng ta có thể khẳng định về tiềm nǎng dồi dào của các tổ chức hội khoa học và kỹ thuật trong công tác phổ biến kiến thức khoa học và kỹ thuật cho quần chúng. Nhìn chung, hoạt động của các báo, tạp chí và bản tin của các tổ chức hội khoa học và kỹ thuật đã từng bước đi vào nề nếp, tuân thủ các quy định ghi trong Luật báo chí và ngày càng trở nên thân quen với đông đảo bạn đọc.
Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng các cơ quan báo chí của chúng ta chưa có sự phối hợp và hợp tác chặt chẽ, thiếu sự trao đổi kinh nghiệm thường xuyên để hỗ trợ lẫn nhau và báo chí phổ biến kiến thức, truyền bá khoa học của chúng ta chưa đủ nǎng lực thâm nhập vào địa bàn nông thôn nơi tập trung 80% dân số cả nước, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, vùng cao.
IV - Bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt cho hội viên và đội ngũ cán bộ khoa học và kỹ thuật; khuyến khích, giúp đỡ các tài nǎng trẻ
Một trong những mối quan tâm đặc biệt của Liên hiệp hội và các hội thành viên là việc bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt cho hội viên và đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật. Dưới ánh sáng Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2, công tác đào tạo và bồi dưỡng của Liên hiệp hội và các hội thành viên đã có những chuyển biến mới, góp phần xã hội hoá giáo dục, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài.
Về đào tạo dài hạn, đến nay đã có ba trường đại học và bốn trường phổ thông dân lập các cấp mới ra đời dưới sự bảo trợ hoặc quản lý của các hội thành viên: Trường đại học dân lập Đông Đô (Hội Vật Lý), Trường đại học dân lập Phương Đông (Liên hiệp hội Hà Nội), Trường đại học dân lập quản lý và kinh doanh Hà Nội (Hội Khoa học Kinh tế), Trường phổ thông dân lập Marie Curie (Hội Vật lý), Trường phổ thông trung học dân lập Đông Kinh (Liên hiệp hội Hà Nội), Trường phổ thôn trung học dân lập Trưng Vương (Viện Nghiên cứu, Đào tạo và Tư vấn khoa học - công nghệ), Trường tiểu học dân lập Nguyễn Thượng Hiền (Hội Tin học). Đây là những mô hình tổ chức đào tạo mới mẻ, cần phải nghiêm túc đánh giá, rút kinh nghiệm về mặt tổ chức, quản lý quá trình đào tạo để tiếp tục hoàn thiện.
Hình thức đào tạo ngắn hạn được Liên hiệp hội và các hội thành viên áp dụng rộng rãi với phương châm "Cần gì học nấy" nhằm đáp ứng những nhu cầu khác nhau của hội viên và người lao động. Với sự giúp đỡ của Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ và Bộ Tài chính, Liên hiệp hội đã mở nhiều lớp học về kế toán, ngoại ngữ, tin học cho hàng trǎm cán bộ, nhân viên của các hội thành viên. Trong nǎm 1997, lần đầu tiên, Liên hiệp hội tổ chức thành công lớp tập huấn về hoạt động tư vấn "Phương pháp tiếp cận dự án - Những vấn đề cơ bản". Nhằm mục đích nâng cao trình độ và thống nhất ý kiến về nội dung và biện pháp công tác hội, Liên hiệp hội còn mở lớp tập huấn cán bộ nǎm 1997 với các nội dung: Công tác khoa học và công nghệ, hoạt động hợp tác quốc tế, bảo hiểm xã hội, thuế đối với các đơn vị nghiên cứu khoa học, triển khai công nghệ và thực hiện dịch vụ khoa học. Hàng trǎm lớp học với hàng vạn học viên của các hội khoa học và kỹ thuật thành viên cũng là những con số đáng kể bên cạnh mạng lưới các trường lớp do các cơ quan Nhà nước tổ chức.
Nhằm khuyến khích các tài nǎng trẻ về khoa học và công nghệ, từ nǎm học 1993 - 1994 đến nay, bằng nguồn vốn huy động được từ các tổ chức trong và ngoài nước, Liên hiệp hội và các hội thành viên đã cấp học bổng cho các học sinh, sinh viên nghèo vượt khó, học giỏi cũng như trao nhiều phần thưởng cho các tập thể và cá nhân đoạt giải tại các kỳ thi quốc tế về toán học, tin học, trị giá hàng trǎm triệu đồng.
Từ chỗ hai nǎm một lần, đến nay mỗi nǎm một lần, Hội Tin học tổ chức đều đặn "Tuần lễ tin học" và Triển lãm "Công nghệ thông tin" luân phiên tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, thu hút được nhiều nhà tin học trẻ tham gia và gây được tiếng vang trong cả nước. Phối hợp với Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường và Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Tin học còn phát động Hội thi tin học trẻ không chuyên nhằm động viên thanh thiếu nhi hǎng hái học tập tin học, góp phần đào tạo nguồn nhân lực trẻ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Hàng nǎm, Hội Xây dựng phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo và Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tổ chức xét chọn và trao giải thưởng cho các đồ án tốt nghiệp xuất sắc của sinh viên các chuyên ngành xây dựng và kiến trúc cả nước, đến nay đã được mười lần. Phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo và Hội Sinh viên Việt Nam, Hội Cơ học phát động được mười kỳ thi Olympic cơ học toàn quốc. Nhiều hội thành viên khác cũng đã áp dụng những hình thức và biện pháp động viên, khuyến khích tương tự đối với các đồ án tốt nghiệp và công trình nghiên cứu xuất sắc của sinh viên.
Tuy nhiên cho đến nay, Liên hiệp hội vẫn chưa chính thức hoá được sự hợp tác với Bộ Giáo dục và Đào tạo về lĩnh vực này bằng một vǎn bản thỏa thuận, đặc biệt là đối với việc mở các lớp đào tạo và bồi dưỡng ngắn hạn. Nhằm góp phần đảm bảo cho sự nghiệp nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài được hoạch định có bài bản và tổ chức thực hiện có hiệu quả, trong thời gian tới cần có sự phối hợp hành động giữa Liên hiệp hội với Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng nhiều cơ quan, tổ chức khác.
V - Nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, hỗ trợ đưa nhanh tiến bộ khoa học và kỹ thuật phục vụ sản xuất và đời sống:
Với tiềm nǎng đa dạng của mình, Liên hiệp hội và các hội thành viên đã tham gia các công trình nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Lực lượng nòng cốt trong công tác này là hàng trǎm tổ chức trực thuộc Liên hiệp hội và các hội thành viên.
Từ nǎm 1994, lần đầu tiên, thực hiện chức nǎng là một đầu mối kế hoạch chuyển giao công nghệ, sản xuất thử và điều tra cơ bản và môi trường. Liên hiệp hội và các tổ chức trực thuộc đã triển khai 10 dự án, qua con đường Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong đó có một số dự án được triển khai liên tục trong bốn nǎm liền.
Ngày 19/8/1997, Bộ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường đã ra quyết định số 1300 QĐ/KH "Công nhận Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam là đầu mối kế hoạch khoa học và công nghệ trong hệ thống chung do Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường quản lý". Với tinh thần đó, Liên hiệp hội được giao nhiệm vụ chủ trì hai đề tài nghiên cứu cấp nhà nước do Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường quản lý. Mặt khác, Liên hiệp hội cũng đã tập hợp được nhiều nhà khoa học để nghiên cứu đề tài lớn "Thực trạng đội ngũ trí thức Việt Nam trong giai đoạn hiện nay" với chín đề tài nhánh. Các kết quả nghiên cứu đã được giới thiệu và thảo luận tại cuộc hội thảo khoa học "Hiện trạng đội ngũ trí thức Việt Nam" tổ chức ngày 13/1/1998 tại thủ đô Hà Nội và vừa qua đề tài này đã được nghiệm thu. Kết quả của đề tài này sẽ rất bổ ích cho việc soạn thảo các vǎn bản chuẩn bị cho Hội nghị Trung ương lần thứ 7 về "Xây dựng và phát huy vai trò của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước".
Về áp dụng tiến bộ khoa học và kỹ thuật, Liên hiệp hội và các hội thành viên đã hoàn thành hai dự án và hiện nay đang xúc tiến bốn dự án mới, trong đó có dự án "Nghiên cứu ứng dụng thử nghiệm nhà nổi cho nông dân đồng bằng sông Cửu Long" và dự án "Công nghệ kiểm tra chất lượng nên móng nhà cao tầng, công trình biển và công trình hạ tầng cơ sở". Nhiều đơn vị trực thuộc Liên hiệp hội cũng đạt được những kết quả đáng mừng trong các đề tài nghiên cứu khoa học, triển khai và chuyển giao công nghệ, sản xuất thử. Các hội thành viên đã chủ trì hoặc tham gia triển khai nhiều dự án, đề tài khoa học và công nghệ. Ở các liên hiệp hội địa phương, hoạt động nghiên cứu và triển khai cũng đã có bước phát triển mới.
Liên hiệp hội và các hội thành viên đã tổ chức được hàng trǎm hội thảo khoa học quốc gia và quốc tế với hàng vạn người tham dự, trong đó có nhiều nhà khoa học từ trên một chục nước thuộc các châu lục khác nhau.
Phối hợp với Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Liên hiệp hội đã tổ chức bốn lần Hội thi sáng tạo kỹ thuật toàn quốc với những kết quả vừa có giá trị về khoa học và công nghệ, lại vừa mang ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Vừa qua, bốn cơ quan đã cùng nhau tổ chức lễ phát động hội thi lần thứ nǎm và kể từ hội thi lần này, Liên hiệp hội sẽ là cơ quan thường trực của ban tổ chức.
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các công trình sáng chế, phát minh và đưa nhanh các tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất và đời sống, Liên hiệp hội thành lập Quỹ hỗ trợ sáng tạo kỹ thuật Việt Nam (VIFOTEC). Thông qua quỹ này, hàng nǎm Liên hiệp hội phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo và Hội Liên hiệp Sinh viên Việt Nam tổ chức trao giải thưởng cho các sinh viên đạt thành tích xuất sắc trong tham gia nghiên cứu khoa học và phối hợp với Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường tổ chức trao giải thưởng cho các công trình xuất sắc về công nghệ cao như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ cơ khí và tự động hoá.
Thực tế cho thấy các hội khoa học và kỹ thuật có khả nǎng thực hiện các công trình nghiên cứu triển khai với hiệu quả cao, nhất là các công trình về điều tra cơ bản và khoa học xã hội vfa nhân vǎn, nhờ vào sự tập hợp trí tuệ liên ngành. Tuy nhiê, để nâng cao hơn nữa chất lượng của các công trình khoa học, công tác tổ chức và quản lý khoa học và công nghệ của Liên hiệp hội và các hội thành viên cần được tiếp tục hoàn thiện.
VI - Tư vấn, phản biện và giám định xã hội về khoa học - công nghệ và kinh tế - xã hội cho các cơ quan Đảng, Nhà nước và các tổ chức khác:
Phát huy ưu thế của một tổ chức mang tính liên ngành, Liên hiệp hội có khả nǎng tập hợp các nhà khoa học đầu đàn thuộc nhiều lĩnh vực chuyên môn hiện đã nghỉ hưu hoặc đang hoạt động tại các cơ sở nghiên cứu, đào tạo, quản lý, sản xuất, kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế khác nhau trong cả nước để nghiên cứu, góp ý kiến đánh giá, phản biện và giám định xã hội về những khía cạnh khác nhau của các dự án và công trình trọng điểm của Đảng và Nhà nước.
Là tổ chức chính trị - xã hội rộng rãi của tầng lớp trí thức, Liên hiệp hội tập hợp đông đảo các nhà khoa học và công nghệ đóng góp ý kiến vào các bản dự thảo các vǎn kiện quan trọng của Đảng và các đạo luật của Nhà nước, như bản dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội VIII của Đảng, dự thảo các Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 và 4, dự án Luật Dân sự, Luật Khoáng sản, Luật Khoa học và Công nghệ, Luật về Hội, Luật giáo dục, dự thảo Nghị định về chuyển giao công nghệ, v.v...
Liên hiệp hội cũng tổ chức phản biện các luận chứng kinh tế - kỹ thuật mang tính chất tổng hợp của một số công trình trọng điểm của Nhà nước, như luận chứng kinh tế - kỹ thuật nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ, dự án tiền khả thi công trình thuỷ điện Sơn La, luận chứng kinh tế - kỹ thuật nhà máy nhiệt điện Phả Lại II, gần đây là dự án quy hoạch hệ thống cảng biển Việt Nam và dự án quy hoạch khu công nghệ cao Hoà Lạc và hiện nay đang thẩm định toàn diện Dự án khả thi nhà máy thuỷ điện Sơn La.
Theo yêu cầu của Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, Liên hiệp hội đã tổ chức thẩm tra báo cáo của Bộ Thuỷ lợi (cũ) về biện pháp xử lý kỹ thuật bước 1 các vi phạm Luật đê điều ở Hà Nội. Tiếp theo đó, cǎn cứ chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, Liên hiệp hội đã phối hợp với Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường thẩm định phương án bước 2 của Bộ Thủy lợi về xử lý kỹ thuật đê sông Hồng trong phạm vi Hà Nội. Các vǎn bản thẩm định đã góp phần làm cơ sở cho quyết định của Chính phủ trong việc xử lý kỹ thuật các vi phạm về Luật đê điều tại Hà Nội.
Thực hiện Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, Liên hiệp hội đã thẩm định phương án điều chỉnh giá điện do Ban Vật giá Chính phủ và Tổng Công ty Điện lực Việt Nam trình Thủ tướng Chính phủ. Những ý kiến thẩm định của Liên hiệp hội đã nhận được sự nhất trí tán thành của nhiều cơ quan chức nǎng của Nhà nước.
Nhằm góp phần thực hiện một trong những trọng tâm công tác của Chính phủ trong nǎm 1997 và theo đề nghị của Hội đồng Thẩm định Nhà nước về các dự án đầu tư, Liên hiệp hội đã tập hợp nhiều nhà khoa học thuộc các hội thành viên để nghiên cứu và phản biện 9 bản quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội các vùng Đồng bằng sông Hồng, Tây Bắc, Bắc Trung Bộ, Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long, Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, vùng phát triển kinh tế trọng điểm miền Trung, vùng phát triển kinh tế trọng điểm phía Nam. Những ý kiến đóng góp của Liên hiệp hội được Hội đồng Thẩm định và Chính phủ đánh giá cao.
Ngoài ra, nhiều hội thành viên cũng đẩy mạnh công tác tư vấn, phản biện và giám định xã hội đối với các dự án chuyên ngành, như dự án cầu Mỹ Thuận, quy hoạch tổng thể về phát thanh và truyền hình, chương trình nghiên cứu vật liệu luyện kim đen, sản xuất gang trong lò cao nhỏ, luận chứng kinh tế - kỹ thuật vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên, đề án xây dựng nhà máy lọc dầu và phương hướng phát triển công nghiệp hoá dầu, đề án điện khí hoá các tỉnh Bắc Thái, Quảng Trị, Tây Ninh, đề án hành nghề y - dược tư nhân, công tác xây dựng pháp luật và hoạt động tư pháp v.v...
Nhìn chung, các chuyên gia của Liên hiệp hội là những nhà khoa học và công nghệ được đào tạo chuyên sâu ở nhiều nước, có quá trình công tác lâu nǎm và tầm nhìn sâu rộng. Nhờ vậy ý kiến phát biểu của họ có chất lượng cao và được tôn trọng. Do không bị ràng buộc bởi cơ chế hành chính, họ có thể phát biểu một cách cởi mở và thẳng thắn những ý kiến của mình trên cơ sở khách quan khoa học và với thiện chí để cùng nhau tìm ra chân lý.
Gần đây, Chính phủ đã giao cho Hội Cơ khí nhiệm vụ tư vấn về công tác phát triển ngành cơ khí của nước nhà. Một số Liên hiệp hội tỉnh như Hà Tĩnh, Quảng Ngãi cũng được chính quyền giao cho nhiệm vụ tư vấn, phản biện và giám định đối với các dự án phát triển của địa phương.
Tuy nhiên, cho đến nay, công tác tư vấn, phản biện và giám định xã hội của Liên hiệp hội và các hội thành viên mới được thực hiện chủ yếu trên cơ sở các quan hệ cụ thể trực tiếp. Phần lớn các dự án là do các cơ quan quen biết đề nghị Liên hiệp hội nghiên cứu và đóng góp ý kiến. Hiện tại vẫn chưa có một cơ chế chung chính thức và nhất quán. Nội dung các dự án mới giới hạn trong một số lĩnh vực nhất định. Nhiều hội thành viên của Liên hiệp hội, nhất là các hội khoa học xã hội ở Trung ương và các Liên hiệp hội ở các tỉnh, thành phố còn gặp nhiều khó khǎn trong việc tham gia hoạt động quan trọng này. Tình hình đó chưa xứng với tiềm nǎng tổng hợp của Liên hiệp hội. Các phương tiện tài chính - vật chất được cung cấp không đủ để bù đắp mức độ huy động công sức và trí tuệ của các nhà khoa học tham gia tư vấn, phản biện và giám định các dự án lớn, có tầm cỡ quốc gia. Những khó khǎn, trở ngại đó đã hạn chế phần nào sự tham gia thẩm định, phản biện xã hội của Liên hiệp hội và các hội thành viên vào những chủ trương, những dự án quan trọng của Trung ương và địa phương.
Hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội là thế mạnh cơ bản của Liên hiệp hội và các hội thành viên. Tuy nhiên, để đạt được những kết quả mong muốn, công tác này cần được thể chế hoá chính thức về mặt Nhà nước, được coi là một trong những kênh tư vấn chính thức cho Đảng và Nhà nước khi ban hành các quyết định quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội, khoa học - công nghệ, xây dựng pháp luật...
VII - Hợp tác quốc tế:
Thực hiện chính sách mở cửa và hội nhập của Đảng và Nhà nước, hoạt động hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ có ý nghĩa cực kỳ quan trọng và luôn luôn được sự quan tâm đặc biệt của Liên hiệp hội và các hội thành viên. Nội dung của hoạt động này tập trung chủ yếu vào các hướng: Trao đổi kinh nghiệm hoạt động với các hội khoa học - kỹ thuật quốc gia và quốc tế, các tổ chức phi chính phủ; Trao đổi thông tin khoa học và công nghệ; Đào tạo và bồi dưỡng cán bộ; Liên kết thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học và dự án triển khai công nghệ.
Được phép của Nhà nước, Liên hiệp hội đã gia nhập Liên đoàn các tổ chức kỹ sư Đông Nam Á và Thái Bình Dương (FEISEAP), cử đại biểu tham dự Đại hội lần thứ VIII (Ôxtrâylia, 4/1994), Đại hội lần thứ IX và Hội nghị các nhà lãnh đạo khoa học Châu Á - Thái Bình Dương (Trung Quốc, 4/1996), Đại hội lần thứ X (Nhật Bản, 4/1998).
Sau khi Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN, Liên hiệp hội trở thành thành viên của Liên đoàn các tổ chức kỹ sư các nước ASEAN. Liên tục trong 4 nǎm qua, các đoàn đại biểu của Liên hiệp hội đã tham dự các Hội nghị hàng nǎm: lần thứ 13 (Inđônêxia, 11/1995), lần thứ 14 (Malayxia, 11/1996), lần thứ 15 (Thái Lan, 11/1997) và lần thứ 16 (Philippin, 11/1998) của tổ chức này.
Trong nhiệm kỳ vừa qua, Liên hiệp hội đã nhiều lần trao đổi các đoàn đại biểu với Hiệp hội khoa học - kỹ thuật Trung Quốc, Hội kỹ sư Ôxtrâylia, Hội kỹ sư Inđônêxia, Hội đồng toàn quốc các kỹ sư và các nhà khoa học Pháp, Hội đồng quốc tế và các hiệp hội khoa học.
Đến nay Liên hiệp hội có quan hệ hợp tác với Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP), Tổ chức thế giới về sở hữu trí tuệ (WIPO), Tổ chức quốc tế các hiệp hội người tiêu dùng (IOCU), Trung tâm Âu - Á, Hiệp hội các trường đại học cộng đồng Canada (ACCC), Trường đại học Bách khoa Conventry (Vương quốc Anh), Hiệp hội khoa học - kỹ thuật Trung Quốc (CAST), Hiệp hội khoa học - kỹ thuật Quảng Tây (GAST), Hội đồng toàn quốc các kỹ sư và các nhà khoa học Pháp (CNISF), Hội kỹ sư Ôxtrâylia (IEAust), Hiệp hội khoa học và giáo dục quốc tế ZNANIE (Liên bang Nga), Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Liên bang Nga, Hội kỹ sư Inđônêxia (PII). Là thành viên của Liên đoàn thế giới các nhà khoa học (WFSW), Liên doàn thế giới các tổ chức kỹ sư (WFEO), Hội đồng quốc tế các hiệp hội giáo dục khoa học (ICASE), Liên đoàn các hội kỹ sư Đông Nam Á và Thái Bình Dương (FEISEAP), Hiệp hội các tổ chức kỹ sư ASEAN (AFEO), Liên hiệp hội đã tham gia nhiều hoạt động quan trọng của các tổ chức quốc tế này.
Từ vài nǎm nay, Liên hiệp hội tranh thủ được sự tài trợ của một số tổ chức phi chính phủ nước ngoài để thực hiện các dự án, trong đó có dự án về chǎm sóc sức khỏe ban đầu tại huyện Đan Phượng (Hà Tây) và huyện Duy Tiên (Hà Nam) và để cấp học bổng cho các sinh viên nghèo, vượt khó, học hỏi của nhiều trường đại học trong nước. Được sự tài trợ của UNDP, Hội Khoa học Kinh tế, với sự tham gia trực tiếp của Liên hiệp hội, triển khai thành công dự án VIE/95/038 về nâng cao nǎng lực tư vấn phục vụ phát triển nguồn lực. Dự án đã thu hút được sự tham gia tích cực của rất nhiều hội thành viên và có hiệu quả thiết thực.
Các hội thành viên cũng cố gắng tǎng cường sự hợp tác về nhiều mặt với các tổ chức quốc tế và quốc gia tương ứng. Nhiều hội thành viên đã gia nhập hoặc tiếp tục tham gia các tổ chức quốc tế và tiếp nhận được sự giúp đỡ hữu hiệu của các tổ chức đó. Trong khuôn khổ quan hệ quốc tế và song phương, các hội thành viên đã cử khoảng 100 đoàn đại biểu của mình đi học tập, nghiên cứu, khảo sát và tham dự các hoạt động khoa học ở nhiềunước trên thế giới, đặc biệt là trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Cùng với Liên hiệp hội, các hội thành viên cũng đã đón tiếp hàng trǎm nhà khoa học từ các nước Thái Lan, Malaixia, Inđônêxia, Trung Quốc, Nhật Bản, Ôxtrâylia, Pháp, Bỉ, Hà Lan, Anh, Phần Lan, Mỹ v.v... Một số hội đã chấp nhận các hội viên tán trợ là người nước ngoài, như Hội Dân tộc học, Hội Tâm lý - Giáo dục học, Hội Ngôn ngữ học, Hội Lâm nghiệp v.v...
Liên hiệp hội và các hội thành viên cũng quan tâm phát triển quan hệ với trí thức Việt kiều, mời các nhà khoa học nổi tiếng người Việt Nam về thǎm quê hương và góp phần giải quyết một số vấn đề khoa học và công nghệ của nước nhà. Vǎn phòng Liên hiệp hội Hà Nội đã nhận được một số máy vi tính do Ban liên lạc các nhà khoa học Việt Nam tại Pháp gửi tặng.
Thực tiễn công tác thời gian vừa qua ngày càng khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của hợp tác quốc tế đối với sự phát triển và hoạt động của Liên hiệp hội và các hội thành viên. Tuy hoàn cảnh còn nhiều khó khǎn, các tổ chức hội đã bền bỉ phấn đấu, thiết lập được sự hợp tác với nhiều tổ chức quốc tế, khu vực và quốc gia, giới thiệu với bè bạn nhiều nước tình hình nước ta, tham gia một số hoạt động quốc tế và tranh thủ được sự giúp đỡ của nước ngoài phục vụ cho việc triển khai nhiều dự án có ý nghĩa. Mặt khác, công tác quản lý hoạt động quan trọng này đã bước đi vào nề nếp, có tác dụng phát huy thế mạnh và hạn chế sai sót.
Tuy nhiên, do những khó khǎn về thủ tục xuất nhập cảnh và về tài chính, các kết quả đạt được chưa tương xứng với tiềm nǎng chất xám và nhu cầu phát triển của Liên hiệp hội và các hội thành viên.
NGUYÊN NHÂN THÀNH CÔNG VÀ MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Những kết quả đạt được của Liên hiệp hội và các hội thành viên trong 5 nǎm qua là do:
Có sự lãnh đạo sát sao của Đảng, đặc biệt là đường lối đổi mới toàn diện đất nước, Chỉ thị số 35 - CT/TW, các thông báo số 37 - TB/TW và số 52 - TB/TW là những vǎn kiện hết sức quan trọng, có tác dụng chỉ đạo sự phát triển và mọi mặt hoạt động chủ yếu của Liên hiệp hội và các hội thành viên. Chỉ riêng trong khoảng mười nǎm lại đây, số lượng các thành viên của Liên hiệp hội đã tǎng thêm 40 hội, tức là hơn hai lần so với hơn ba chục nǎm trước đó, trong đó có 23 hội khoa học và kỹ thuật ngành ở Trung ương và 18 Liên hiệp hội tỉnh, thành phố. Hoạt động của Liên hiệp hội đã trở nên phong phú, đa dạng và đúng hướng, góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
- Sự lớn mạnh của Liên hiệp hội tùy thuộc vào khả nǎng tập hợp lực lượng và sự đoàn kết nhất trí, vào tình hình và kết quả hoạt động đúng hướng của các hội thành viên và các đơn vị trực thuộc. Liên hiệp hội, các hội thành viên và đơn vị trực thuộc càng hoạt động mạnh mẽ, đạt được nhiều kết quả, mang lại lợi ích thiết thực cho đất nước, thì xã hội càng thừa nhận vị trí, vai trò của Liên hiệp hội là tổ chức chính trị - xã hội của trí thức Việt Nam. Mặt khác vai trò và vị trí xã hội của các hội càng được khẳng định khi Liên hiệp hội vững mạnh.
- Hoạt động hội đạt được những thành quả nhất định là nhờ nhiệt tình, sôi nổi, tính nǎng động, óc sáng tạo và tinh thần chủ động cao của tất cả các hội thành viên, các cán bộ và hội viên. Điều đó càng đáng được biểu dương khi phần lớn các hội thành viên hoạt động trên cơ sở tự chủ, tự quản, tự trang trải kinh phí. Mặt khác, để có hiệu quả cao, các hoạt động hội còn phải đươc quản lý theo luật pháp của Nhà nước, theo Điều lệ và quy chế của Liên hiệp hội . Những công việc chưa thành công có nguyên nhân một phần là sự chấp hành chưa nghiêm túc những quy định đó.
- Sự hợp tác giữa các hội với nhau và giữa các hội với các Bộ, ngành, cơ quan và tổ chức hữu quan, có tầm quan trọng đặc biệt. Chính nhờ sự hợp tác chân thành, tích cực và có hiệu quả mà lần đầu tiên Liên hiệp hội trở thành đầu mối kế hoạch chuyển giao công nghệ, sản xuất thử và điều tra cơ bản và môi trường (1994) và đầu mối kế hoạch khoa học và công nghệ (1997), tạo điều kiện cho việc triển khai nhiều đề tài và dự án quan trọng.
- Sự tài trợ của Nhà nước cho Liên hiệp hội và thông qua Liên hiệp hội phần nào cho các hội thành viên trong những nǎm qua dù đang còn rất khiêm tốn, nhưng hết sức quý báu, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thành công nhiều hoạt động rất có ý nghĩa. Kết quả hoạt động càng cao thì uy tín của Liên hiệp hội và các hội thành viên càng được củng cố vững chắc, đồng thời cũng tạo cơ sở cho việc tranh thủ được thêm từ nhiều phía những điề kiện thuận lợi mới cho hoạt động của các tổ chức hội.
- Cuối cùng phải nhắc đến hoạt động hợp tác quốc tế. Uy tín hiện nay của Liên hiệp hội tại nhiều nước và tổ chức quốc tế là kết quả sự nỗ lực thiết lập, phát triển, khai thác và củng cố quan hệ hữu nghị với bạn bè quốc tế. Đó là một trong những tiền đề quan trọng của việc tranh thủ các điều kiện cần thiết để triển khai các dự án hợp tác song phương và đa phương.
Trong nhiệm kỳ vừa qua, Liên hiệp hội các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam đã luôn luôn nhận được sự quan tâm lãnh đạo và chỉ đạo sâu sát của đảng Nhà nước, sự ủng hộ nhiệt tình của các tổ chức chính trị - xã hội khác, sự hợp tác chặt chẽ của các cơ quan ở Trung ương và các địa phương. Đó là nguyên nhân cơ bản tạo nên mọi thành tựu của Liên hiệp hội và các hội thành viên. Từ diễn đàn Đại hội này, chúng tôi xin thay mặt Hội đồng Trung ương Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam chân thành cảm ơn:
- Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương và các cơ quan trung ương của Đảng, đặc biệt là Vǎn phòng Trung ương, Ban Tổ chức Trung ương, Ban Khoa giáo Trung ương, Ban Dân vận trung ương, Ban Đối ngoại Trung ương...,
- Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nươc và các cơ quan của Chủ tịch nước,
- Chủ tịch Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội, đặc biệt là Vǎn phòng Quốc hội và Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường...,
- Thủ tướng Chính phủ và các cơ quan của Chính phủ, đặc biệt là Vǎn phòng Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ KHoa học, Côngnghệ và Môi trường, Bộ Công nghiệp, Bộ Tài chính...
- Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên.
- Tỉnh ủy, Thành ủy và Ủy ban Nhân dân các tỉnh, thành phố trong cả nước, đặc biệt là các tỉnh, thành phố đã thành lập Liên hiệp hội khoa học và kỹ thuật địa phương.
Phần II
PHƯƠNG HƯỚNG HOẠT ĐỘNG CỦA LIÊN HIỆP CÁC HỘI KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT
VIỆT NAM TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC
VÀ NHỮNG NHIỆM VỤ CƠ BẢN CHO NHIỆM KỲ IV (1999 - 2004)
I - Tầng lớp trí thức Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc
Tính đến giữa nǎm 1997, nước ta có trên 930.000 người có trình độ cao đẳng, đại học trở lên. Trong số này, những người đạt học vị thạc sĩ, phó tiến sĩ, và tiến sĩ là 120.000, chiếm 1,3% tổng số trí thức trong cả nước. Liên hiệp hội đã có trên 500.000 hội viên, tức là đã chiếm quá nửa số người có vǎn bằng cao đẳng và đại học trở lên. Đó là chưa kể vài chục vạn trí thức Việt kiều đang sinh sống ở nước ngoài. Đội ngũ trí thức đã có nhiều công lao đóng góp cho đất nước trong nhiều lĩnh vực kinh tế, vǎn hoá - xã hội, an ninh và quốc phòng, đặc biệt là trong việc nâng cao dân trí, đào tạo lớp trí thức mới. Đội ngũ đó là lực lượng quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Mặt mạnh cơ bản của đội ngũ trí thức nước ta là giàu lòng yêu nước, thiết tha với sự nghiệp cách mạng, trung thành với chủ nghĩa xã hội, có đủ nǎng lực tiếp thu nhanh kiến thức hiện đại, ham muốn tìm tòi, sáng tạo, cống hiến sức mình cho sự phồn vinh của đất nước. Đại bộ phận trí thức hiện nay là con em nhân dân lao động, nhiều người đã được rèn luyện, thử thách qua những chặng đường khó khǎn của cách mạng, nhạy bén với thời cuộc, ủng hộ và tích cực tham gia sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng lãnh đạo, góp phần vào việc ổn định chính trị - xã hội trong những nǎm qua. Giới trí thức đã đề xuất nhiều ý kiến về việc khắc phục những khó khǎn trước mắt và tiếp tục đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Lớp trí thức trẻ, kể cả sinh viên, nǎng động, dám nghĩ, dám làm, sớm có ý thức lập nghiệp. Họ hǎng hái, bền bỉ học tập, nhanh chóng nắm được kiến thức hiện đại, biết vận dụng vào cuộc sống và nhiều người đã trở thành chuyên gia trong lĩnh vực chuyên môn của mình.
Trong giai đoạn 1991 - 1995, đội ngũ trí thức Việt Nam đã triển khai hàng trǎm công trình nghiên cứu cấp nhà nước, hàng nghìn đề tài cấp bộ, ngành. Từ những kết quả thu được, giới trí thức đã góp phần không nhỏ vào việc hoạch định đường lối, chính sách của đảng và Nhà nước, xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến nǎm 2010 và chiến lược phát triển khoa học - công nghệ đến nǎm 2020, xác định các bước đi của công nghiệp hoá, hiện đại hoá với sự phân kỳ cụ thể. Chỉ riêng trí thức khối khoa học xã hội và nhân vǎn đã triển khai thành công 150 đề tài quốc gia, công bố kết quả nghiên cứu ở 784 bài viết, hàng trǎm hội thảo khoa học. Rất nhiều ý kiến đóng góp từ công trình nghiên cứu đã được đưa vào nội dung báo cáo chính trị của ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam trình đại hội VIII.
Cũng trong giai đoạn 1991 - 1995, đội ngũ trí thức Việt Nam đã đóng góp rất nhiều vào việc mở rộng qui mô đào tạo đại học và sau đại học. Nếu như trước nǎm 1990, mỗi nǎm số sinh viên được tuyển mới không quá 15.000 thì nǎm học 1996 - 1997 đã tuyển mới với con số 169.418 sinh viên. Nếu trước nǎm 1990 mỗi nǎm chỉ tuyển trên dưới 300 nghiên cứu sinh thì nǎm 1996 đã tuyển đến 1.000 người. Đến tháng 4/1996 đã có 2.800 nghiên cứu sinh bảo vệ thành công luận án phó tiến sĩ. Ở hệ cao học, từ nǎm 1992 đến nǎm 1996 đã tuyển 15011 học sinh (riêng nǎm 1996 tuyển 4.200). Hàng nghìn thạc sĩ đã được nhận bằng trong mấy nǎm qua.
Trong giai đoạn sắp tới, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đòi hỏi ngày càng nhiều nhân lực khoa học - công nghệ, từ các nhà khoa học có trình độ cao đến những công nhân lành nghề. Đội ngũ trí thức ở Trung ương và cả ở các địa phương có thể đáp ứng yêu cầu đó thông qua công tác giảng dạy, giáo dục và kèm cặp ở các trường lớp chính quy cũng như tại các cơ sở đào tạo phi chính quy ngắn hạn và dài hạn.
Với vốn hiểu biết sâu rộng và bề dầy kinh nghiệm của mình, trí thức có khả nǎng đề xuất, thử nghiệm và triển khai nhiều dự án phát triển. Họ sẽ là đầu tàu lôi cuốn quảng đại quần chúng nhân dân tiến quân vào khoa học - công nghệ. Mặt khác, họ có điều kiện tiếp thu, tiến tới làm chủ công nghệ nhập. Sự kết hợp chặt chẽ giữa phát huy nội lực và tranh thủ ngoại lực là một tiền đề của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 đã khẳng định.
Sức mạnh trí tuệ phong phú và đa dạng của đội ngũ trí thức hứa hẹn nhiều đóng góp có hiệu quả trong việc tư vấn, phản biện và giám định xã hội đối với các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, các dự án hoặc công trình phát triển có quy mô lớn mang tính chất liên ngành. Trong xây dựng các dự án kể từ khâu xác định mục tiêu, lập dự án tiền khả thi, dự án khả thi đến thiết kế kỹ thuật, thi công xây, mua sắm, lắp đặt trang thiết bị, nguyên vật liệu, vận hành, bảo dưỡng và quản lý công trình đều không thể thiếu sự thẩm định, phản biện của các nhà khoa học và công nghệ. Thực tiễn những nǎm vừa qua cho thấy ngày càng rõ nét rằng đây là một thế mạnh của tầng lớp trí thức.
Trong các cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, trí thức chiếm một tỷ lệ đáng kể. Họ đã được đào tạo tương đối hoàn chỉnh, đang hoạt động trong môi trường khoa học và công nghệ tiên tiến, có điều kiện tiếp cận với những thông tin sốt dẻo về khoa học - kỹ thuật và kinh tế - xã hội. Tuy sống xa quê hương, họ vẫn hướng về Tổ quốc, mong muốn được góp phần xây dựng nước nhà. Ở nước ngoài, họ có điều kiện cung cấp hoặc thẩm định những thông tin mới nhất, giới thiệu các đối tác thích hợp, lựa chọn các cơ sở đào tạo hoặc trực tiếp tham gia đào tạo sinh viên Việt Nam, quyên góp tiền bạc, của cải để ủng hộ đồng bào trong nước. Nếu được về nước, họ có thể giảng dạy hoặc thuyết trình về một số chuyên đề, cung cấp tài liệu khoa học - công nghệ quý hiếm, tham gia nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ. Một bộ phận trong số họ có thể đầu tư hoặc tham gia đầu tư vào các dự án phát triển ở Trung ương và nhất là ở các địa phương. Thu hút và tạo điều kiện thuận lợi cho trí thức Việt kiều về nước tham gia giảng dạy, nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ là công việc cần thiết để tǎng cường lực lượng trí tuệ của đất nước.
II - Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam - tổ chức chính trị - xã hội của trí thức Việt Nam.
Thực tiễn đấu tranh cách mạng hơn nửa thế kỷ qua đã chứng minh rằng, để có thể phát huy được tối đa tiềm nǎng tổng hợp đối với công cuộc xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, tầng lớp trí thức cần được tập hợp và đoàn kết lại trong một tổ chức thống nhất đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam ra đời trước đây 15 nǎm đã đáp ứng kịp thời yêu cầu đó. Sự gia tǎng liên tục và nhanh chóng số lượng các tổ chức thành viên cũng như sự phát triển mạnh mẽ mọi mặt hoạt động của Liên hiệp hội là nguyện vọng chính đáng của tầng lớp trí thức, phù hợp với đường lối đổi mới của Đảng. Qua quá trình phát triển 15 nǎm, Liên hiệp hội trở thành đại diện cho giới trí thức khoa học và công nghệ đông đảo trong cả nước nói chung, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với tầng lớp trí thức.
Tại thông báo số 52 - TB/TW ngày 3/8/1993, Ban Bí thư Trung ương (khoá VII) đã khẳng định: "Với chức nǎng là một tổ chức tập hợp, đoàn kết đội ngũ trí thức của đất nước hướng vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam là một tổ chức chính trị - xã hội, của giới trí thức Việt Nam". Trước sự khẳng định này, giới trí thức hy vọng rằng, tổ chức chính trị - xã hội của mình cũng cần được nhìn nhận và đối xử như các tổ chức chính trị - xã hội khác trong hệ thống chính trị nước nhà. Chỉ thị 45 - CT/TW ngày 11-11-1998 vừa qua của Bộ Chính trị về đẩy mạnh hoạt động của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam lại càng khẳng định những điều nêu trên.
Đánh giá cao vai trò của Liên hiệp hội và các hội khoa học và kỹ thuật trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Hội nghị Trung ương 2 (khoá VIII) một lần nữa nhấn mạnh yêu cầu: "Củng cố và tǎng cường hoạt động của các hội khoa học và kỹ thuật nhằm tập hợp rộng rãi lực lượng trí thức. Phát huy vai trò chính trị - xã hội của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật ở Trung ương và địa phương trong việc phổ biến và ứng dụng kiến thức khoa học vào sản xuất và đời sống, trong nghiên cứu khoa học, triển khai công nghệ và bảo vệ môi trường cũng như trong công tác tư vấn, phản biện và giám định xã hội. Đảng và Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các hội khoa học và kỹ thuật". Sự khẳng định trên đây là nguồn động viên to lớn đối với trí thức, song cũng nói lên trách nhiệm nặng nề của Liên hiệp hội và đội ngũ trí thức Việt Nam trong giai đoạn mới.
III - Phương hướng hoạt động của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam trong nhiệm kỳ IV (1999 - 2004)
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh, toàn dân, toàn quân ta đang vững bước tiến vào thế kỷ XXI. Những thành tựu của sự nghiệp đổi mới đạt được hơn mười nǎm qua tạo nên những tiền đề quan trọng cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước nhà. Mặt khác, nước ta cũng đang đứng trước những thử thách hết sức gay gắt. Sự phát triển của nền kinh tế chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp, còn nhiều yếu tố chưa đảm bảo tǎng trưởng cao và lâu bền. Thiên tai nặng nề liên tiếp trên nhiều miền của đất nước và cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở một số nước trong khu vực và trên thế giới đã và sẽ còn ảnh hưởng đến nền kinh tế nước ta. Để có thể đưa đất nước tiếp tục tiến lên, hội nhập với sự phát triển của khu vực và thế giới, tham gia và thực hiện cam kết với APEC, AFTA và WTO vào đầu thế kỷ tới, cần nêu cao ý chí độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, ra sức khắc phục những khó khǎn yếu kém, phát huy đầy đủ nǎng lực nội sinh của dân tộc, trong đó nguồn lực con người là quý báu nhất, có vai trò quyết định, coi phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ là yếu tố cơ bản, là khâu đột phá. Trong cuộc trường chinh còn đầy gian khổ và vinh quang ấy, tầng lớp trí thức khoa học công nghệ và tổ chức chính trị - xã hội của tầng lớp do Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam có vị trí và vai trò ngày càng rất quan trọng.
Chỉ thị số 45 - CT/TW ngày 11 tháng 11 nǎm 1998 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) về đẩy mạnh hoạt động của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam đã khẳng định lại một lẫn nữa: "Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam là một tổ chức chính trị - xã hội của trí thức khoa học và công nghệ Việt Nam, cùng với các đoàn thể chính trị - xã hội khác tạo thành lực lượng nòng cốt trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước". Bản Chỉ thị nêu rõ vị trí và nhiệm vụ, xác định cơ cấu tổ chức và nguyên tắc hoạt động của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, đồng thời nhấn mạnh việc tǎng cường sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước đối với Liên hiệp hội.
Chỉ thị 45 của Bộ Chính trị là một vǎn kiện cực kỳ quan trọng, mở ra thời kỳ phát triển mới của Liên hiệp hội và các hội thành viên, đặt cơ sở vững chắc cho việc tập hợp và đoàn kết đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ ở trong và ngoài nước, chỉ đạo và quản lý, điều hoà và phối hợp hoạt động của toàn bộ hệ thống các hội khoa học và kỹ thuật phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước nhà. Vǎn kiện này thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Bộ Chính trị đối với sự phát triển tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống các hội khoa học và kỹ thuật.
Để có thể phát huy được đầy đủ vai trò của một tổ chức chính trị - xã hội của trí thức Việt Nam trong thời kỳ đầy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, theo tinh thần Chỉ thị của Bộ Chính trị, Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, các hội thành viên và đơn vị trực thuộc cần ra sức hoàn thành tốt những nhiệm vụ cơ bản sau đây:
1 - Đẩy mạnh hoạt động tập hợp, đoàn kết và tạo điều kiện cho các hội thành viên và giới trí thức nói chung phát huy tiềm nǎng trí tuệ để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước;
- Tham gia tổng kết thực tiễn và phát triển lý luận, thực hiện chức nǎng tư vấn, phản biện và giám định xã hội, góp phần hoàn thiện đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước, xây dựng cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính sách, luật pháp và các kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội, tǎng cường an ninh - quốc phòng;
- Phát huy mạnh mẽ vai trò động lực của khoa học và công nghệ trong quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá, tích cực tham gia nghiên cứu khoa học và ứng dụng những kỹ thuật tiến bộ và công nghệ mới;
- Phổ biến kiến thức khoa học - công nghệ cho quảng đại quần chúng; Tổ chức và hướng dẫn phong trào quần chúng tiến quân vào khoa học và công nghệ;
- Tham gia sự nghiệp nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo thế hệ trẻ nhằm đáp ứng những yêu cầu trước mắt và phục vụ đắc lực cho sự phát triển của đất nước trong tương lai.
2 - Phát huy vai trò thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, phối hợp với các đoàn thể và tổ chức khác làm tốt những công việc:
- Góp phần xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, vǎn minh;
- Góp phần duy trì và phát triển truyền thống vǎn hoá tốt đẹp của dân tộc, tạo điều kiện để nhân dân tiếp xúc với nền vǎn hoá thế giới, tích cực tham gia vào việc xây dựng nếp sống mới, gia đình vǎn hoá mới, chống các hiện tượng tiêu cực và tệ nạn xã hội, chống tâm lý bi quan và lối sống sa đọa, bài trừ hủ tục, mê tín, dị đoan;
- Vận động các nhà khoa học, giới trí thức nói chung tham gia đấu tranh bảo vệ hoà bình, chống chiến tranh, xây dựng tình hữu nghị và hợp tác giữa các dân tộc, bảo vệ sự cân bằng và đa dạng sinh thái, chống ô nhiễm môi trường;
- Vận động anh chị em trí thức người Việt Nam đang ở nước ngoài đóng góp trí tuệ và sức lực vào công việc xây dựng đất nước.
3 - Làm đầu mối quan hệ giữa Liên hiệp hội và các hội thành viên với các cơ quan của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức khác nhằm giải quyết những vấn đề chung trong hoạt động hội cụ thể là:
- Đề nghị Chính phủ sớm thể chế hoá chỉ thị số 45 - CT/TW ngày 11 tháng 11 nǎm 1998 của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng nhằm tạo ra hành lang pháp lý thích hợp, những cơ chế, chính sách thông thoáng, thúc đẩy nhanh sự phát triển hoạt động của các hội thành viên. Đồng thời qua đó cũng tạo ra những điều kiện thuận lợi để các hội khoa học và kỹ thuật và đội ngũ các nhà khoa học, công nghệ nói chung đóng góp ngày càng hiệu quả cho sự phồn vinh của đất nước, xứng đáng và ngang tầm với những nhiệm vụ to lớn đang đặt ra trước tổ chức chính trị - xã hội của chúng ta.
- Trong số những vấn đề cần thể chế hoá về mặt Nhà nước, trước hết Liên hiệp hội đề nghị Chính phủ sớm thể chế hoá chức nǎng tư vấn, phản biện và giám định xã hội, vì đây là thế mạnh cơ bản của Liên hiệp hội và các hội thành viên. Cụ thể là: tham gia tư vấn, phản biện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, các dự án phát triển kinh tế - xã hội, các chương trình khoa học - công nghệ lớn mang tính chất ngành hoặc liên ngành.
- Tham gia thực hiện các chương trình xã hội lớn như: Chương trình nâng cao dân trí, phổ biến kiến thức khoa học - công nghệ, đưa nhanh tiến bộ khoa học - công nghệ vào cuộc sống; chương trình xoá đói giảm nghèo; chương trình tạo việc làm; chương trình bảo vệ môi trường, kể cả môi trường thiên nhiên cũng như môi trường vǎn hoá - xã hội.
4 - Củng cố và phát triển tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống Liên hiệp hội trong cả nước:
- Tiếp tục củng cố và phát triển hoạt động của các hội thành viên. Thành lập một số hội khoa học và kỹ thuật ở cấp Trung ương, trước hết là ở những lĩnh vực khoa học và kỹ thuật có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đẩy mạnh việc thành lập Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật tại các tỉnh, thành phố đã có nhu cầu và hội đủ các điều kiện cần thiết. Có cơ chế thích hợp để thu hút lực lượng trí thức trẻ tham gia ngày càng đông và tích cực vào các hoạt động hội.
- Củng cố và tǎng cường cơ quan thường trực Liên hiệp hội về các mặt tổ chức, nhân sự, qui chế làm việc và cơ sở vật chất - kỹ thuật. Thành lập Nhà xuất bản và Trung tâm thông tin trực thuộc Liên hiệp hội.
- Khẩn trương xây dựng qui chế (trên cơ sở lấy ý kiến của các hội thành viên) trong đó xác định rõ:
Một là, tiêu chí thành lập một hội khoa học và kỹ thuật, xác định hệ thống cấp hội từ Trung ương xuống địa phương, kèm theo đó là tư cách pháp nhân, chức nǎng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cấp hội này.
Hai là, xác định mối quan hệ giữa Liên hiệp hội với các cơ quan Đảng, Nhà nước và Mặt trận; mối quan hệ giữa Liên hiệp hội và các hội thành viên, giữa các hội thành viên với nhau để nâng cao hiệu quả hoạt động của toàn bộ hệ thống hội.
5 - Giáo dục tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý thức trách nhiệm công dân, tính cộng đồng, tính trung thực và đạo đức nghề nghiệp. Bảo vệ lợi ích chính đáng và hợp pháp của anh chị em trí thức, tạo điều kiện thuận lợi để nâng cao trình độ nghề nghiệp, đời sống tinh thần và vật chất của hội viên và của những người làm công tác khoa học và công nghệ.
6 - Quản lý phát triển các hoạt động đối ngoại và hợp tác quốc tế nhằm mục tiêu mở rộng việc trao đổi thông tin và hợp tác khoa học - kỹ thuật, tranh thủ sự ủng hộ và trợ giúp của các tổ chức khoa học và công nghệ nước ngoài, tạo thêm các điều kiện thuận lợi cho công tác nghiên cứu và đào tạo trong nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần IV đánh dấu một cái mốc quan trọng trong sự phát triển của đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ nói chung và của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam nói riêng. Đại hội được tiến hành khi mà thế kỷ XXI chỉ còn cách gần 400 ngày.
Nhiệm vụ cơ bản của nhiệm kỳ Đại hội này là Liên hiệp hội và các hội thành viên cùng các anh chị em trí thức khoa học, công nghệ khác và lực lượng trí thức trong các lĩnh vực vǎn hoá, nghệ thuật, quản lý, kinh doanh phải thực sự góp phần quan trọng vào việc chấn hưng giáo dục, vǎn hoá, làm cho sự phát triển khoa học và công nghệ trở thành một động lực mạnh mẽ, tạo ra khâu đột phá đối với công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Sự nghiệp xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ mới cũng như xu thế toàn cầu hoá trên các lĩnh vực kinh tế, tài chính, thương mại, sản xuất, vǎn hoá... đòi hỏi hơn lúc nào hết phải phát triển và phát huy nǎng lực trí tuệ của đất nước, hội nhập vào thế giới hiện đại mà vẫn giữ được bản sắc vǎn hoá và truyền thống lịch sử dân tộc đã được hun đúc qua hàng ngàn nǎm đấu tranh dựng nước và giữ nước của nhân dân ta, trong đó có sự đóng góp vô cùng to lớn của các bậc hiền tài, các sĩ phu yêu nước Việt Nam. Trên tinh thần này, Đại hội chúng ta kêu gọi anh chị em trí thức khoa học và công nghệ Việt Nam ở trong và ngoài nước, các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam đoàn kết một lòng, cống hiến sức lực và trí tuệ của mình để thực hiện tốt nhiệm vụ khó khǎn và vinh quang đó mà Tổ quốc và nhân dân giao phó.
TM. Đoàn chủ tịch hội đồng TW liên hiệp các hội KH&KT Việt Nam
Chủ tịch
GS. Hà Học Trạc