Báo cáo của Hội đồng Trung ương tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V Liên hiệp các hội khoa học và kĩ thuật Việt Nam (Kết quả)
Phần ITình hình và kết quả hoạt động 5 năm (1999-2004)
PGS.TS Hồ Uy Liêm, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký LHH |
Quán triệt sâu sắc các Nghị quyết, Kết luận của Ban chấp hành Trung ương về phương hướng, nhiệm vụ cơ bản của công tác khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo trong tình hình mới và Chỉ thị 45 của Bộ Chính trị, Đại hội lần thứ IV Liên hiệp hội (tháng 1/1999) đã đề ra phương, hướng nhiệm vụ chính trị trọng tâm của Liên hiệp hội cho giai đoạn 5 năm (1999-2004) ; theo đó, có các nhiệm vụ:
Làm tốt chức năng tập hợp, đoàn kết đội ngũ trí thức KHCN trong nước và trí thức người Việt ở nước ngoài;đẩy mạnh các hoạt động phổ biến kiến thức KHCN, thực hiện Nghị quyết TW 2 về giáo dục và đào tạo đào tạo, khoa học và công nghệ; tư vấn, phản biện và giám định xã hội trong hoạt động khoa học nhằm góp phần thiết thực của Liên hiệp hội vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tăng cường công tác chính trị tư tưởng, nâng cao lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tinh thận cộng đồng, tính trung thực trong khoa học và đạo đức nghề nghiệp trong giới trí thức.
Vận động xây dựng cơ chế chính sách, tạo hành lang pháp lí và điều kiện thuận lợi cho hoạt động của Liên hiệp hội.
I - Xây dựng và phát triển tổ chức Liên hiệp hội
Tổ chức của Liên hiệp hội hiện nay có đặc thù giống như một mặt trận. Các tổ chức thành viên tự nguyện gia nhập Liên hiệp hội (và có thể tự nguyện ra khỏi Liên hiệp hội) có tính độc lập rộng rãi, thể hiện ở chỗ mỗi tổ chức có điều lệ riêng, có cơ cấu bộ máy, hệ thống tổ chức, đội ngũ cán bộ, nguồn kinh phí hoạt động riêng trên cơ sở tôn trọng Điều lệ của Liên hiệp hội và tuân thủ sự chỉ đạo, kiểm tra của Hội đồng Trung ương Liên hiệp hội. Liên hiệp hội, ở trung ương và địa phương, thực hiện chức năng tập hợp, đoàn kết và điều hòa, phối hợp hoạt động của các thành viên và đơn vị trực thuộc. Điều này, một mặt cho phép các tổ chức thành viên của Liên hiệp hội giữ được tính độc lập cao, mặt khác, nó phản ảnh sự liên kết phi hành chính giưã các hội thành viên và Liên hiệp hội .
1- Liên hiệp hội đã có bước phát triển nhanh về xây dựng tổ chức với nhiều loại hình tập hợp trí thức khoa học và công nghệ
Thực tiễn đổi mới kinh tế-xã hội đã thúc đẩy sự phát triển nhanh về tổ chức của các hội khoa học và công nghệ. Cho đến nay (tháng 10/2004) Liên hiệp hội có 92 hội thành viên, trong đó có 56 hội ngành trung ương và 36 Liên hiệp hội địa phương. Như vậy, sau 5 năm kể từ Đại hội lần thứ IV (tháng 1/1999) Liên hiệp hội có thêm 28 hội thành viên (tăng 44%) bao gồm 12 Liên hiệp hội địa phương (tăng 52%) và 16 hội ngành trung ương (tăng 39%).
Trong tổ chức của hội thành viên có các hội chuyên ngành (tổ chức theo chuyên ngành hoặc theo lĩnh vực khoa học với mức độ chuyên sâu và qui mô rất khác nhau). Có hội thành viên gồm các hội chuyên ngành hoạt động trong phạm vi rất rộng, có hội thành viên gồm các hội chuyên ngành rất hẹp. Hội ngành ở địa phương đồng thời là thành viên của hội ngành trung ương và của Liên hiệp hội địa phương. Mạng lưới tổ chức của nhiều hội đã phát triển sâu rộng trong các thành phần kinh tế; khoảng 43% số hội có chi hội trong các doanh nghiệp nhà nước, 15% có chi hội trong các doanh nghiệp khác; 70%-75% các chi hội nằm trong các trường đại học/cao đẳng, các viện, cơ sở nghiên cứu, các cơ quan quản lí Nhà nước và tổ chức khác. Trong số trên 200 đơn vị KHCN của Liên hiệp hội, có gần 100 đơn vị trực thuộc Đoàn chủ tịch Liên hiệp hội.
Các hội ngành hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự quản, tự lo liệu kinh phí (trừ Tổng hội Y-Dược học, Hội Đông y Việt Nam và Hội Luật gia Việt Nam), do đó, hầu hết các hội gặp khó khăn về tài chính. Tất cả các tổ chức thuộc Liên hiệp hội hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận.
Liên hiệp hội tập hợp trong hàng ngũ của mình hơn 40 vạn trí thức KH&CN; ngoài ra, Hội Làm vườn Việt Nam và Hội Nuôi ong Việt Nam thu hút thêm khoảng 40 vạn hội viên là nông dân.
Phạm vi hoạt động của các hội đã bao quát hầu hết các lĩnh vực KH&CN. Một số Liên hiệp hội địa phương đã phát triển đến cấp huyện (Liên hiệp hội Hà Tĩnh đã phát triển đến 11 huyện, thị), cấp phường (phường Khương Mai, Liên hiệp hội Hà nội). Một số hội ngành có số lượng hội viên tập thể rất lớn; các hội Địa chất, Xây dựng, đã được Nhà nước cho phép chuyển thành Tổng hội.
Tuy nhiên, hiện còn 28 tỉnh, thành trực thuộc trung ương (chiếm 45% số tỉnh, thành trong cả nước) chưa có liên hiệp hội, trong đó phần lớn thuộc các tỉnh phía Bắc (15 tỉnh) và phía Nam (13 tỉnh). Nhiều địa phương chưa quan tâm thực hiện Chỉ thị số 45-CT/TTg của Bộ Chính trị và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2- Khái quát thực trạng của các hội thành viên
Số liệu điều tra về 22 liên hiệp hội địa phương và 25 hội KHKT ngành ở trung ương do Liên hiệp các hội khoa học và kĩ thuật Việt Nam tổ chức phục vụ công tác sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 45/CT-TW đã cho thấy khá rõ nét về thực trạng tổ chức và hoạt động của tất cả các hội thành viên Liên hiệp hôi.
a- Các hội khoa học và kĩ thuật ngành ở trung ương.
Về phạm vi hoạt động, có gần 100 hội hoạt động trong toàn quốc (trong đó có 56 hội thành viên của Liên hiệp hội và khoảng 40 hội thuộc Tổng hội Y-Dược học), chiếm hơn 1/3 số hội được Chính phủ ra quyết định thành lập của cả nước. Về lĩnh vực hoạt động, trong số 56 hội thành viên của Liên hiệp hội, có 8 hội khoa học xã hội và nhân văn, 7 hội khoa học tự nhiên, 41 hội và tổng hội khoa học công nghệ.
Hội KHKT ngành có hai loại thành viên: cá nhân và tập thể. Hội viên tập thể gồm các hội chuyên ngành nhỏ trong hội lớn, các phân hội và chi hội. Một số hội có số đông hội viên là nông dân trực tiếp sản xuất (Hội Làm vườn, Hội Nuôi ong). Chưa có tiêu chuẩn chung về việc kết nạp hội viên và đáng lưu ý là, trong phần lớn các hội, rất ít hội viên trẻ.
Trong số các hội ngành trung ương, chỉ có 03 hội nhận được tài trợ thường xuyên của Nhà nước (Hội Luật gia, Hội Đông y và Tổng hội Y-Dược học) số còn lại tự lo liệu kinh phí hoạt động.
Phát huy tiềm năng và thế mạnh, với mức độ và kết quả khác nhau, các hội đã triển khai nhiều hoạt động phục vụ hội viên, quan hệ với các tổ chức quốc tế, tham gia soạn thảo, phản biện nhiều văn bản pháp luật và chiến lược, chính sách phát triển ngành, tổ chức nghiên cứu khoa học và ứng dụng tiến bộ kĩ thuật và tổ chức cung ứng dịch vụ kĩ thuật cho các doanh nghiệp (xem phụ lục). Các hội ngành trung ương được hỏi ý kiến, tự đánh giá rằng 13% hoạt động tốt, 44% ở mức trung bình và 43% chưa tốt.
Quyết định số 21/2003/QĐ-TTg ngày 29/1/2003 của Thủ tướng Chính phủ kèm theo thông tư hướng dẫn thực hiện số 123/2003/TT-BTC ngày 16/12/2003 của Bộ Tài chính về việc ngân sách nhà nước hỗ trợ cho các tổ chức chính trị-xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội-nghề nghiệp đối với những hoạt động gắn với nhiệm vụ của Nhà nước đã thể hiện sự quan tâm lớn của Nhà nước đối với hoạt động hội. Tuy nhiện, hiện đang thiếu một hành lang pháp lí phù hợp. Nghị định số 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/03 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lí hội đã khẳng định quyền tham gia và lập hội của công dân và các tổ chức, nhưng cũng còn một số nội dung có xu hướng “hành chính hóa” công tác quản lý các hoạt động hội, trở về cách quản lý theo nhiều cửa. Nếu như Luật doanh nghiệp đã thực sự cởi trói, khuyến khích mạnh các hoạt động sản xuất-kinh doanh thì Nghị định 88/2003/NĐ-CP chưa tạo dựng được hành lang pháp lý thông thoáng cho hoạt động hội.
Một trong những khó khăn lớn nhất trong công tác hội là thu hút trí thức, nhất là trí thức trẻ, trí thức trong các doanh nghiệp tham gia hoạt động hội. Đa số các hội nhận thấy rằng nhiều hội viên chưa tham gia tích cực vì chưa nhận được quyền lợi nghề nghiệp cụ thể, thiết thực . Phần lớn các hoạt động hội hiện nay chủ yếu là do công sức của Ban chấp hành, Ban Thường vụ , chưa huy động được sự tham gia của đông đảo hội viên. Liên hiệp hội chưa phát huy được sức mạnh liên ngành, chưa gắn kết chặt chẽ hoạt động của các hội với nhau. Hiện nay, chưa có cơ chế hữu hiệu để thu hút trí thức Việt kiều tham gia hoạt động hội, phục vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước.
b- Các Liên hiệp các hội khoa học và kĩ thuật tỉnh, thành phố trực thuộc TW (các Liên hiệp hội địa phương).
Hiện nay, có gần 80% lực lượng cán bộ có trình độ đại học trở lên sống và làm việc tập trung ở Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và các đô thị lớn khác. ở một số tỉnh, thành, đa số cán bộ khoa học thuộc hai lĩnh vực giáo dục và y tế, chưa đủ điều kiện thành lập Liên hiệp hội, thậm chí, chưa có hội Tâm lý-Giáo dục
Trong số 36 Liên hiệp hội địa phương (tính đến tháng 4 năm 2004) có 11 Liên hiệp hội ở Bắc bộ, 5 Liên hiệp hội ở Bắc Trung bộ, 9 ở Trung bộ và Tây Nguyên và 11 ở Nam bộ. Còn nhiều tỉnh ở vùng núi phía Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam bộ chưa có Liên hiệp hội. Chính ở những địa phương này lại càng cần có Liên hiệp hội và các hội KHKT (trong tỉnh hoặc liên tỉnh) để đóng góp cho sự phát triển khoa học và công nghệ, kinh tế-xã hội ở địa phương.
Các liên hiệp hội địa phương là các tổ chức chính trị-xã hội tập hợp, đoàn kết trí thức KH & CN và điều hòa phối hợp hoạt động các hội thành viên ở địa phương, đồng thời chỉ đạo (hướng dẫn, kiểm tra, hỗ trợ) các hội thành viên trong công tác xây dựng hội.
Các Liên hiệp hội địa phương có tiềm năng và thế mạnh là : tập hợp cán bộ KHKT ngành và liên ngành thực hiện các nhiệm vụ của Liên hiệp hội ở địa phương (95,4% tự khẳng định), có điều kiện quan hệ tốt với cơ quan Đảng và chính quyền địa phương (68,2%), đảm bảo tính độc lập, khách quan (77,2%) trong các hoạt động đóng góp ý kiến, tư vấn phản biện , giám định xã hội và phản ánh nguyện vọng của trí thức KHCN (điển hình là các liên hiệp hội Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Đắc lắc, Lâm Đồng, Quảng Ngãi, Bình Định, Hải Dương, Hải Phòng, Cần Thơ, Đà Nẵng…)
Tuy nhiên, còn nhiều Liên hiệp hội địa phương rất lúng túng trong các hoạt động cụ thể dẫn đến chất lượng hoạt động chưa cao. Riêng việc thực hiện Quyết định 22/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng, căn cứ 26 báo cáo của các Liên hiệp hội địa phương, có 30% Liên hiệp hội đã triển khai thực hiện nhiệm vụ tư vấn, phản biện và giám định xã hội, trong đó 84,6% tham gia góp ý kiến cho các văn kiện của Đảng, Nhà nước, 69,2% góp ý cho các qui hoạch phát triển và 63,5% góp ý, phản biện cho các công trình khoa học và dự án đầu tư.
Phạm vi và kết quả hoạt động của Liên hiệp hội địa phương còn phụ thuộc nhiều vào sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và hỗ trợ của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương. Tính chất chính trị-xã hội của Liên hiệp hội địa phương chưa được nhận thức thống nhất từ trung ương đến địa phương. Đảng đoàn của hầu hết các Liên hiệp hội đia phương đã giải thể.
Mặt khác, theo đánh giá chung, đội ngũ cán bộ hội hiện nay (thiếu về số lượng, hạn chế về trình độ và kinh nghiệm) khó có thể đáp ứng yêu cầu phát triển và hoạt động ngày càng khó khăn, phong phú của Liên hiệp hội và các hội thành viên.
3- Các đơn vị, tổ chức trực thuộc.
Cần khẳng định rằng, xã hội hóa khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, dịch vụ y tế và một số hoạt động khác là chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Nhờ đó, đã huy động rộng rãi các nguồn lực xã hội, tạo thêm nhiều công ăn việc làm mới, tạo ra nhiều mô hình hoạt động mới trên cơ sở phi lợi nhuận và tự trang trải tài chính. Sự ra đời và hoạt động của hơn 400 đơn vị nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đào tạo trên cả nước, trong đó có trên 200 đơn vị nằm trong hệ thống Liên hiệp các hội KH&KT Việt Nam, là sự đàp ứng đòi hỏi khách quan, phản ánh đúng nhu cầu của xã hội. Tuy nhiên, cần có những cơ chế thông thoáng và hiệu quả hơn trong quản lí nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho sự phát triển của các đơn vị đó.
Hiệu quả hoạt động của các đơn vị KHCN không đồng đều. Có khoảng 20% đơn vị hoạt động rất tốt, đóng góp nhiều cho xã hội, đặc biệt là các đơn vị tham gia phát triển cộng đồng và xóa đói giảm nghèo, nghiên cứu một số vấn đề xã hội. Nhiều đơn vị hoạt động rất tốt đã hỗ trợ tích cực cho Liên hiệp hội nhằm nâng cao hiệu quả và đa dạng hóa nội dung và phương thức hoạt động, tăng cường khả năng tập hợp, phối hợp, liên kết giữa các đơn vị khác nhau.
II- Tập hợp, đoàn kết trí thức KH&CN; phát huy tiềm năng trí tuệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
1- Vận động, tổ chức trí thức KH và CN thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
a- Đẩy mạnh hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội.
Nhiệm vụ tư vấn, phản biện và giám định xã hội được Đảng và Nhà nước giao cho Liên hiệp hội, đã thể hiện nhất quán, liên tục trong nhiều văn kiện của Đảng và Nhà nước. Đây là hoạt động rất khó và mới mà Liên hiệp hội đã kiên trì phấn đấu thực hiện trong thời gian vừa qua, bước đầu đạt được kết quả đáng khích lệ.
Trong 5 năm qua, Đoàn chủ tịch Liên hiệp hội đã phối hợp với các Hội ngành trung ương và Liên hiệp hội địa phương tổ chức cho các nhà khoa học tham gia đóng góp ý kiến, tư vấn, phản biện đối với hàng chục đề án phát triển kinh tế- xã hội, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, bảo vệ môi trường và các vấn đề khác mà xã hội, dư luận quan tâm.
Thực hiện Quyết định số 22/2002/QĐ-TTg ngày 30/01/2002 của Thủ tướng Chính phủ “về hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội của Liên hiệp các hội khoa học và kĩ thuật Việt Nam”, Đoàn chủ tịch đã chỉ đạo toàn Liên hiệp hội phối hợp với UBND các tỉnh, thành (nơi có tổ chức Liên hiệp hội) tổ chức 4 hội thảo khoa học trong toàn quốc và xây dựng Chương trình hành động triển khai Quyết định này trong 2 năm (2003-2004) . Trên cơ sở chương trình hành động chung, các hội thành viên chủ động xây dựng chương trình hành động riêng. Liên hiệp hội đã thành lập 19 hội đồng tư vấn chuyên ngành và Ban công tác tư vấn, phản biện và giám định xã hội, ban hành “Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ tư vấn, phản biện và giám định xã hội” và góp phần cùng với Bộ Tài chính xây dựng Thông tư hướng dẫn cơ chế tài chính cho cá hoạt động này.
Đặc biệt, Liên hiệp hội đã tổ chức tư vấn, phản biện và thẩm định hồ sơ của nhiều dự án đầu tư phát triển quan trọng, trong đó lớn nhất là dự án khả thi xây dựng thuỷ điện Sơn La trên sông Đà, dự án xây dựng đường Hồ Chí Minh đoạn qua Vườn Quốc gia Cúc Phương, dự án làm sạch nước Hồ Tây.
Kết quả tư vấn cho các dự án lớn nhất này đã được Thủ tướng chấp nhận. Ngày 02/01/2004, Chủ tịch Hội đồng thẩm định Nhà nước Dự án thủy điện Sơn La đã ra quyết định số 04/QĐ-HĐTĐSL khen thưởng Liên hiệp các hội khoa học và kĩ thuật Việt Nam “đã có thành tích tham gia trong công tác thẩm định dự án thủy điện Sơn La từ năm 1998 đến năm 2003”.
Các hội ngành trung ương và liên hiệp hội tỉnh, thành phố (tiêu biểu nhất là Liên hiệp các hội KH&KT thành phố Hồ Chí Minh) đã khắc phục khó khăn, có nhiều cố gắng triển khai hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội. Trong số các hội thành viên được hỏi ý kiến, có 84,6% đã từng tham gia ý kiến cho các dự thảo văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước và đóng góp tư vấn quý báu cho sự phát triển địa phương mình hoặc ngành mình.
Hiện nay, Chính phủ có chủ trương phối hợp Liên hiệp các hội khoa học và kĩ thuật Việt Nam với các cơ quan chức năng đẩy mạnh công tác tư vấn, giám sát và tiến tới thành lập cơ quan giám sát độc lập các công trình xây dựng lớn. Về phần mình, thường trực Đoàn chủ tịch Hội đồng trung ương đã chủ động chỉ đạo cơ quan Liên hiệp hội xây dựng các dự án về nâng cao năng lực của Liên hiệp hội trong tư vấn và phản biện, trong đó có dự án về đánh giá việc thực hiện chính sách giảm nghèo trong “Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo” ở một số địa phương.
Tư vấn, phản biện, giám định xã hội, tham gia giám sát độc lập (gọi tắt là tư vấn độc lập) là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của Liên hiệp các hội khoa học và kĩ thuật Việt Nam, được lãnh đạo Đảng và Nhà nước khuyến khích. Tuy vậy, việc thực hiện các hoạt động này đang gặp rất nhiều khó khăn. Một mặt, các Bộ, Ban, ngành trung ương và Uỷ ban nhân dân các địa phương chưa thực sự vào cuộc, chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của hoạt động tư vấn độc lập trong việc xây dựng và thực hiện các dự án phát triển. Luật pháp chưa có các qui định bắt buộc sử dụng tư vấn độc lập đối với các dự án đó. Mặt khác, năng lực, kĩ năng thực tiễn của các chuyên gia thuộc hệ thống Liên hiệp hội nói chung còn hạn chế, thiếu năng động, chủ động và quyết tâm, chưa tạo được niềm tin lớn đối với các cơ quan sử dụng tư vấn. Năng lực vận động chính sách cũng là điểm yếu trong hoạt động tư vấn của Liên hiệp hội.
b- Tham gia các hoạt động giáo dục-đào tạo, chăm sóc sức khoẻ nhân dân
Trong 5 năm qua, Liên hiệp hội đã đặc biệt quan tâm và tích cực tham gia xã hội hoá giáo dục, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, xã hội hoá hoạt động chăm sóc sức khoẻ nhân dân, cụ thể là:
Bảo trợ cho các trường đại học, cao đẳng và phổ thông dân lập (03 trường đại học, 01 trường cao đẳng và nhiều trường phổ thông dân lập). Đến nay, trên 4,5 vạn sinh viên đã và đang được đào tạo tại các trường đại học dân lập và các khoa đào tạo dài hạn do các hội ngành trung ương và Liên hiệp hội một số tỉnh, thành phố tổ chức hoặc bảo trợ.
Tổ chức thường xuyên các lớp đào tạo ngắn hạn và tập huấn về các lĩnh vực khoa học và kĩ thuật, công nghệ, chuyên môn và nghiệp vụ, trong đó có các lớp tập huấn, đào tạo nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động hội. Trên 1,5 triệu lượt người đã tham dự gần 2 vạn khoá tập huấn và đào tạo ngắn hạn.
Nhằm phục vụ cho hoạt động tư vấn, phản biện, giám định xã hội, Liên hiệp hội đã tổ chức nhiều lớp tập huấn về nghiệp vụ tư vấn cho cán bộ Liên hiệp hội và các sở, ban ngành nhiều tỉnh và thành phố. Đây là hoạt động bổ ích, được những người tham dự và lãnh đạo địa phương nhiệt liệt hoan nghênh.
Toàn Liên hiệp hội đã cấp trên 3000 suất học bổng trị giá trên 3,25 tỉ đồng cho học sinh, sinh viên nghèo vượt khó, học giỏi và học sinh, sinh viên là con em thương binh, liệt sĩ và đồng bào dân tộc thiểu số thuộc 24 tỉnh, thành phố và 20 trường đại học, cao đẳng; trao nhiều phần thưởng cho các tập thể và cá nhân đoạt giải tại các kì thi quốc tế về toán học, tin học, hoá học, vật lí …
Trong nhiều năm qua, Liên hiệp hội ở trung ương và địa phương và các hội ngành đã phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tiến hành các hoạt động phát hiện và bồi dưỡng nhân tài thông qua việc tổ chức giải thưởng sinh viên nghiên cứu khoa học, tuyển chọn và tặng thưởng cho các đồ án tốt nghiệp xuất sắc. Nhiều hội ngành trung ương và Liên hiệp hội địa phương đã giới thiệu các tài năng trẻ đi dự các hội nghị quốc tế và đi du học ở nước ngoài.
c- Hoạt động thông tin, phổ biến kiến thức khoa học và kĩ thuật
Hoạt động phổ biến kiến thức về khoa học, kĩ thuật cho quần chúng được thực hiện dưới nhiều hình thức: Báo, tạp chí, tập san, chuyên san, bản tin, tờ rơi, sách chuyên dề, tài liệu hướng dẫn, tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng (báo Trung ương và địa phương, phát thanh, truyền hình, mạng Internet); câu lạc bộ, triển lãm, hội thảo, tập huấn, truyền thông, nói chuyện chuyên đề…
Đến nay, hầu hết các hội thành viên đều có ấn phẩm riêng. Báo Khoa học và Đời sống, Tạp chí Khoa học và Tổ quốc, Bản tin hoạt động các hội khoa học và kĩ thuật, Thời báo Kinh tế Việt Nam, Báo khoa học phổ thông, cùng với 145 tạp chí, tập san, chuyên san, bản tin của các hội thành viên và đơn vị trực thuộc, đã cung cấp thông tin, phản ánh tình hình và kết quả hoạt động trên hầu hết các lĩnh vực khoa học và công nghệ, đáp ứng kịp thời các nhu cầu đa dạng của bạn đọc và quần chúng nhân dân.
Ngoài ra, Liên hiệp hội đã xuất bản nhiều đầu sách có giá trị về mặt khoa học, bao gồm sách khoa học và kĩ thuật chuyên ngành, từ điển chuyên ngành, sách hướng dẫn kĩ thuật phục vụ công tác nghiên cứu, tham khảo và tuyên truyền.
Một hình thức phổ biến kiến thức khoa học và kĩ thuật có hiệu quả khác là mạng lưới rộng khắp gồm hơn 40 câu lạc bộ thu hút trên 11 nghìn hội viên.
Các phương tiện phát thanh và truyền hình là một kênh quan trọng khác được sử dụng. Hội các ngành Sinh học VN đã phối hợp với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài tiếng nói Việt Nam mở các chuyên mục về hỏi-đáp khoa học kĩ thuật, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư; đáng chú ý là chuyên mục “ Cùng nông dân bàn cách làm giàu “, “Bạn của nhà nông”, duy trì đều đặn trên sóng truyền hình, đợc nông dân ưa thích.
Liên hiệp hội đã hợp tác với Đài Truyền hình Việt Nam xây dựng một số chương trình truyền hình chuyên đề : “Khoa học và công nghệ trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, “Xây dựng mô hình phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, xây dựng phim tài liệu “Nơi hội tụ của trí thức khoa học và công nghệ Việt Nam”.
Công tác thông tin đã được đẩy mạnh theo Chỉ thị 14/2000/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Năm 2002, Liên hiệp hội đã xây dựng mạng nội bộ cơ quan (LAN), thiết kế các phần mềm cơ sở dữ liệu, xuất bản “Tin hoạt động các hội khoa học và kĩ thuật” (một kì/tháng); thiết kế trang Web gồm tiếng Việt và tiếng Anh và thường xuyên cập nhật thông tin lên mạng. Để tiến tới đáp ứng các nhu cầu thông tin trong toàn hệ thống và được Chính phủ cho phép, Liên hiệp hội đã cấp cho mỗi hội thành viên 01 máy tính điện tử (31 Liên hiệp hội địa phương và 49 hội ngành trung ương).
Tuy nhiên, tính liên kết, tính hợp tác giữa các báo và tạp chí của Liên hiệp hội chưa cao, chưa phát huy được hiệu quả và sức mạnh tổng hợp của báo chí khoa học và công nghệ. Hoạt động thông tin, phổ biến kiến thức chưa quan tâm đúng mức đến lĩnh vực khoa học xã hội-nhân văn, nhất là khoa học kinh tế và quản lí Nhà nước, quản lí doanh nghiệp.
d- Tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ.
Các hoạt động khoa học của Liên hiệp hội tập trung chủ yếu vào nghiên cứu KHCN phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn (các đề tài về nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản, chăn nuôi, cải tạo và sử dụng đất, bảo vệ và sử dụng hợp lí nguồn tài nguyên thiên nhiên, xử lí nước sinh hoạt, chăm sóc sức khoẻ nhân dân, y tế dự phòng…) Đã có hàng trăm đề tài nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, dự án điều tra cơ bản và môi trường được triển khai. Số lượng đề tài chưa nhiều, nhưng các hội thành viên và các đơn vị trực thuộc đã bám sát các chương trình mục tiêu, chương trình trọng điểm của Nhà nước và yêu cầu của thực tế sản xuất, đời sống.
Nhiều kết quả nghiên cứu đã được đánh giá cao, đợc triển khai ra diện rộng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, góp phần xoá đói giảm nghèo. Những nỗ lực trực tiếp chuyển giao tiến bộ kĩ thuật cho người dân, xây dựng mô hình để người dân tự học, tự làm, tự quyết định đầu tư là phương pháp tiếp cận chính của Liên hiệp hội trong chuyển giao tiến bộ kỹ thuật. Chương trình mở “Xây dựng mô hình phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá” triển khai trên địa bàn 7 tỉnh phía Bắc và một số tỉnh phía Nam đã giúp các hộ nông dân tăng thu nhập bình quân lên tối thiểu là 2 lần, riêng tại Huyện Yên Định tỉnh Thanh Hoá, tăng 5 lần, góp phần tích cực nâng cao dân trí, đánh thức năng lực sáng tạo của người dân và được phổ biến nhanh trong nông thôn.
Cơ quan thường trực Liên hiệp hội đã phối hợp với các hội thành viên và đơn vị KHCN trực thuộc tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo quốc gia và quốc tế về khoa học và công nghệ, phát triển kinh tế, phát triển cộng đồng, xoá đói giảm nghèo vùng dân tộc thiểu số. Nhiều hội thảo được đánh giá cao về giá trị khoa học và ý nghĩa thực tiễn.
Nhiều đơn vị khoa học công nghệ hoạt động có hiệu quả đã góp phần tích cực vào công cuộc xã hội hoá khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, phát huy dân chủ ở cơ sở. Giải thưởng sáng tạo khoa học công nghệ Việt Nam, do Liên hiệp hội và Bộ KH và CN cùng phối hợp tổ chức hàng năm, đã trao giải cho 186 công trình KHCN của gần 1000 nhà khoa học trong cả nước với tổng số tiền thưởng hơn 2 tỉ đồng. Giải thưởng này đã thu hút được sự tham gia tích cực của nhiều nhà khoa học trẻ và các nhà doanh nghiệp. Hầu hết các kết quả của các công trình đoạt giải đều được áp dụng trong thực tiễn.
Nhằm cổ vũ động viên tinh thần sáng tạo, phát huy sáng kiến trong quảng đại quần chúng nhân dân, Liên hiệp hội đã cùng với Bộ KH và CN (trước đây là Bộ KH, CN và MT), Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tổ chức Hội thi sáng tạo kĩ thuật toàn quốc 2 năm một lần; hiện nay đang tổ chức hội thi lần thứ 8 (2004-2005).
Tuy vậy, các đề tài khoa học xã hội còn ít và chưa được quan tâm đúng mức; cơ chế xét duyệt các đề tài, dự án và kiểm tra đôn đốc, nghiệm thu, tổng kết còn chưa chặt chẽ.
e- Hoạt động phát triển cộng đồng và xoá đói giảm nghèo.
Trong số trên 200 đơn vị KHCN trực thuộc, có khoảng 30% đơn vị đã và đang có những hoạt động phát triển cộng đồng, xoá đói giảm nghèo ở các vùng khó khăn, vùng đặc biệt khó khăn (vùng 2 và vùng 3) và vùng đồng bào dân tộc thiểu số phía Bắc, Trung bộ và Tây Nguyên.
Bằng nguồn kinh phí gần 120 tỉ đồng, trong đó nguồn viện trợ của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài chiếm 89%, nguồn hỗ trợ từ các chương trình, dự án quốc gia của Chính phủ khoảng 10%, trong 5 năm qua, gần 30 đơn vị KHCN trực thuộc Liên hiệp hội ở trung ương và các hội thành viên đã triển khai hàng trăm đề tài, dự án nghiên cứu xã hội, phát triển cộng đồng và xoá đói giảm nghèo trên các lĩnh vực: xây dựng cơ sở hạ tầng; xây dựng làng sinh thái để sử dụng hợp lí tài nguyên và bảo vệ môi trường ; chuyển giao tiến bộ kĩ thuật ; giáo dục về giới và bình đẳng giới ; Y tế và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng ;phòng chống tệ nạn xã hội, HIV/AIDS ; giáo dục pháp luật, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc và xây dựng các qui chế cộng đồng phát huy dân chủ ở cơ sở ; xây dựng các mô hình phát triển bền vững gắn với xoá đói giảm nghèo ; bồi dưỡng đào tạo nông dân tiêu biểu, nòng cốt… Nhiều nhà khoa học thuộc các hội thành viên và các đơn vị trực thuộc đã trở thành các chuyên gia tư vấn có uy tín cho các tổ chức phi chính phủ nước ngoài và các tổ chức quốc tế trong việc xây dựng, thực hiện, đánh giá hiệu quả các dự án do họ tài trợ. Các hoạt động này đã góp phần nâng cao uy tín của Liên hiệp các hội khoa học và kĩ thuật Việt Nam.
2- Hoạt động hợp tác quốc tế.
Nội dung của hoạt động hợp tác quốc tế của Liên hiệp hội tập trung vào các hướng : trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm hoạt động với các hội KH&KT quốc gia và quốc tế ; trao đổi thông tin KH&CN ; đào tạo và bồi dưỡng cán bộ; liên kết thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học và dự án phát triển công nghệ ; phát triển cộng đồng và xoá đói giảm nghèo.
Sau khi Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN, Liên hiệp hội trở thành thành viên của Liên đoàn các tổ chức công nghệ ASEAN (AFEO).
Được phép của Thủ tướng Chính phủ, Hội nghị khoa học thường niên CAFEO lần thứ 18 đã được Việt Nam đăng cai tổ chức tại Hà Nội trong 3 ngày 23-25/11/2000. Gần 350 đại biểu là các nhà khoa học, khách mời của 12 quốc gia châu á và Ôxtrâylia (trong đó 10 nước thuộc khối ASEAN) đã tới dự. Tại Hội nghị, đã có khoảng 80 báo cáo tham luận của các nhà khoa học về các lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ sinh hoc, vật liệu mới và chiến lược đào tạo nguồn nhân lực.
Trong thời gian qua, Liên hiệp hội đã nhiều lần trao đổi các đoàn đại biểu với Hiệp hội khoa học-kĩ thuật Trung Quốc, Hội kĩ sư Ôxtrâylia, Hội kĩ sư Inđônêsia, Hội đồng toàn quốc các kĩ sư và các nhà khoa học Pháp, Hội đồng quốc tế các hiệp hội khoa học…
Nhiều hội thành viên đã tổ chức thành công các hội nghị, hội thảo khoa học quốc tế và khu vực. Đặc biệt, năm 2003, Hội Hóa học Việt Nam đã tổ chức thành công Hội nghị Hóa học á-Âu, Hội nghị Hóa học châu á và Hội nghị Hóa học toàn quốc với sự tham gia của 400 nhà khoa học nước ngoài, trong đó có 3 nhà khoa học được nhận giải thưởng Nobel.
Trong khuôn khổ quan hệ quốc tế và song phương, các hội thành viên đã cử hàng trăm đoàn đại biểu đi học tập, nghiên cứu, khảo sát và tham dự các hoạt động khoa học ở nhiều nước trên thế giới và khu vực Châu á-Thái Bình Dương. Cơ quan thường trực của các hội thành viên đã đón tiếp hàng trăm nhà khoa học từ các nước Thái lan, Malaixia, Indonexia, Nga, Trung Quốc, Nhật Bản, Ôxtrâylia, Pháp, Bỉ, Hà Lan, Anh, Phần Lan, Mỹ… Một số hội đã chấp nhận các hội viên tán trợ là người nước ngoài.
Liên hiệp hội đã quan tâm phát triển quan hệ với trí thức Việt Kiều, mời các nhà khoa học người Việt Nam về thăm quê hương và góp phần giải quyết một số vấn đề về khoa học và công nghệ của nước nhà.
Tuy nhiên, hiện nay theo qui định của Nhà nước, các trí thức nước ngoài và trí thức Việt kiều có quốc tịch nước ngoài chưa được tham gia các hội khoa học và kĩ thuật với tư cách là thành viên dưới bất kì hình thức nào, vì thế sự thu hút họ vào hoạt động hội đang gặp rất nhiều khó khăn.
3- Phát huy vai trò thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hoạt động chính trị-xã hội.
Là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Liên hiệp hội ngày càng thể hiện rõ vai trò tập hợp, đoàn kết, phát huy năng lực của các cán bộ KH&CN trong cả nước với nhiều loại hình tổ chức như Liên hiệp hội (ở trung ương và địa phương), tổng hội, hội, chi hội, phân hội, các đơn vị nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đào tạo, các câu lạc bộ khoa học-thời sự.
Liên hiệp hội đã tập hợp các nhà khoa học tham gia đóng góp ý kiến cho nhiều dự thảo văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước: dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội IX; các văn kiện Hội nghị Trung ương 6, 7 (khoá IX), và các văn kiện quan trọng khác; đóng góp ý kiến về vai trò của trí thức trong liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; tổ chức các cuộc hội thảo khoa học với nhiều nội dung phong phú liên quan đến nhiều lĩnh vực quan trọng trong sự phát triển của đất nước ; đóng góp ý kiến với dự thảo các văn kiện Đại hội tỉnh, thành uỷ, các qui hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội các địa phương, chiến lược, kế hoạch phát triển ngành v.v…
Với tinh thần trách nhiệm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, trí thức KH&CN đã phát huy tinh thần dân chủ, thẳng thắn phát biểu ý kiến về những vấn đề hệ trọng liên quan đến quốc kế, dân sinh, cũng như mạnh dạn đề đạt ý kiến của mình trong việc xây dựng và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và chủ trương, giải pháp thực hiện của địa phương.
Hoạt động phát hành các báo, tạp chí và hoạt động của các câu lạc bộ của Liên hiệp hội đã có tác dụng tốt trong công tác giáo dục chính trị-tư tưởng, vận động trí thức, định hướng dư luận, tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính sách, luật pháp của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế-xã hội, về KH&CN, giáo dục và đào tạo, đặc biệt là đối với lực lượng trí thức KH&CN hoạt động trong khu vực ngoài Nhà nước. Nhiều hoạt động tôn vinh các danh nhân văn hoá, khoa học đã góp phần nâng cao lòng tự hào dân tộc và giáo dục ý thức dân tộc cho thế hệ trẻ.
Liên hiệp hội kịp thời tổ chức các đợt nghiên cứu quán triệt và triển khai thực hiện các nghị quyết của Đại hội IX và các hội nghị Trung ương khoá IX, đặc biệt nghiên cứu sâu những văn kiện liên quan đến KH & CN, GD &ĐT.
Liên hiệp hội đã giới thiệu với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam một số nhà khoa học tham gia vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp: 10 nhà khoa học là đại biểu Quốc hội khoá XI, nhiều nhà khoa học là đại biểu Hội đồng nhân dân và Mặt trận Tổ quốc các cấp; giới thiệu các nhà khoa học và các công trình, cụm công trình khoa học xuất sắc cho việc xét tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước về KH&CN; đã có 7 công trình và cụm công trình đạt Giải thưởng Hồ Chí Minh.
Nhân dịp kỉ niệm 20 năm ngày thành lập Liên hiệp các hội khoa học và kĩ thuật Việt Nam (26/3/1983 - 26/3/2003) Đoàn chủ tịch Hội đồng trung ương đã phát động phong trào thi đua yêu nước trong toàn Liên hiệp hội; thành lập và trao tặng “Huy chương vì sự nghiệp các hội KH&KT” cho hơn 1000 nhà khoa học và cán bộ Hội. Liên hiệp hội tích cực tham gia các phong trào, các cuộc vận động, đóng góp xây dựng các quỹ và các hoạt động khác do Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động: “Quỹ xoá đói giảm nghèo”, “Quỹ vì người nghèo”, “Quỹ Phòng chống thiên tai”, “Quỹ lá lành đùm lá rách”, các hoạt động “Đền ơn đáp nghĩa”, “Xây dựng nhà tình nghĩa”, “Xây dựng vườn cây tình nghĩa”, “Khám chữa bệnh và cấp thuốc miễn phí cho người thuộc diện chính sách, người nghèo ở vùng sâu, vùng xa”, “Tư vấn pháp lí miễn phí cho người nghèo”…
Qua thực tiễn, Liên hiệp các hội khoa học và kĩ thuật Việt Nam ngày càng khẳng định vai trò một tổ chức đầu mối đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng trí thức KH và CN Việt Nam.
III - Phát huy vai trò của cơ quan Liên hiệp hội ở trung ương và địa phương, thực hiện nhiệm vụ đầu mối quan hệ giữa các hội thành viên với các cơ quan đảng và nhà nước, các đoàn thể và tổ chức khác.
1- Hợp tác xây dựng cơ chế chính sách thực hiện Chỉ thị 45/CT-TW của Bộ Chính trị.
Ngay sau Đại hội IV, Đảng đoàn và Đoàn Chủ tịch đã có văn bản chỉ đạo cơ quan Liên hiệp hội ở trung ương và địa phương chủ động xúc tiến việc thể chế hoá Chỉ thị 45-CT/TW của Bộ chính trị. Về phía Nhà nước, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành chỉ thị 14/2000/CT-TTg “Về việc triển khai thực hiện các biện pháp nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động của Liên hiệp các hội khoa học và kĩ thuật Việt Nam” yêu cầu các bộ, ngành và uỷ ban Nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quan tâm và tạo điều kiện thuận lợi để Liên hiệp hội tham gia, đóng góp có hiệu quả vào các hoạt động khoa học, công nghệ và môi trường và các chương trình, dự án phát triển kinh tế-xã hội. Tiếp theo đó, Thủ tướng Chính phủ kí Quyết định 22/2002/QĐ-TTg ngày 30/01/2002 “Về hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội của Liên hiệp các hội khoa học và kĩ thuật Việt Nam” và Quyết định 21/2003/QĐ-TTg ngày 29/01/2003 V/v Nhà nước hỗ trợ kinh phí cho các hoạt động hội có gắn với nhiệm vụ của Nhà nước. Ban khoa giáo Trung ương, Văn phòng Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Nội vụ đã tích cực phối hợp với Liên hiệp hội trong việc triển khai thực hiện Chỉ thị 45-CT/TW của Bộ Chính trị và Chỉ thị 14/2000/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Ngày 1/4/2003, Bộ Tài chính ban hành thông tư số 27/2003/TT-BTC hướng dẫn cơ chế tài chính cho hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội của Liên hiệp hội. Ngày 25/8/2003 Bộ Nội vụ có công văn số 1980/BNV-TCPCP v/v tạo cơ chế, chính sách để Liên hiệp hội trung ương và Liên hiệp hội tỉnh, thành hoạt động có hiệu quả.
Cơ quan thường trực của Liên hiệp hội đã đóng vai trò rất tích cực trong quá trình xây dựng các văn bản pháp qui nêu trên. Điều này cũng thể hiện tinh thần trách nhiệm, tính hợp tác cao của các Bộ, Ban, ngành, cũng như mối quan hệ công tác tốt đẹp giữa các cơ quan đó với Liên hiệp các hội khoa học và kĩ thuật Việt Nam.
ở địa phương, đến nay đã có 18 tỉnh, thành uỷ cụ thể hoá Chỉ thị 45-CT/TW, 4 Uỷ ban Nhân dân tỉnh cụ thể hoá Chỉ thị 14/2000/CT-TTg, 9 Uỷ ban Nhân dân tỉnh cụ thể hoá Quyết định 22/2002/QĐ-TTg thành các văn bản chỉ đạo ,tổ chức thực hiện.
Tuy nhiên, việc thể chế hóa Chỉ thị 45/CT-TW ở cả Trung ương và địa phương được triển khai rất chậm và chưa đồng bộ.
2- Quan hệ hợp tác với các Bộ, đoàn thể và tổ chức khác.
Liên hiệp hội đã kí kết các chương trình hợp tác với Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Công nghiệp, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Khuyến học, Liên hiệp các tổ chức Hữu nghị Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Đặc biệt, gần đây Liên hiệp hội đã kí kết Chương trình liên kết với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hỗ trợ nông dân Việt Nam phát triển kinh tế hàng hóa đa dạng và bền vững(thường gọi là Chương trình liên kết giữa bốn nhà). Mặc dù số chương trình hợp tác được ký kết chưa nhiều, nhưng trong thực tế, trừ chương trình hợp tác với Bộ Khoa học và Công nghệ, đa số các chương trình chưa được các bên tham gia ký kết tích cực triển khai thực hiện.
Hội thi Sáng tạo kĩ thuật toàn quốc 2 năm/lần và Giải thưởng Sáng tạo KHCN Việt Nam , các giải thưởng sáng tạo cho sinh viên nghiên cứu khoa học, gần đây là Giải thưởng sáng tạo cho học sinh (đã có một số học sinh trong số này đạt giải thưởng sáng tạo tại Nhật Bản) là các chương trình hợp tác truyền thống giữa Liên hiệp hội (ở Trung ương và địa phương) với Bộ KH &CN và Bộ GD&ĐT, các sở KHCN&MT, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh được triển khai đều đặn và có hiệu quả. Các hội KHKT ngành đã phối hợp với các Bộ và đoàn thể triển khai nhiều hoạt động nhằm khuyến khích, phát hiện và bồi dưỡng trí thức trẻ.
3- Một số kiến nghị của các hội thành viên với Liên hiệp các hội khoa học và kĩ thuật Việt Nam và với cơ quan lãnh đạo, quản lí của Đảng, Nhà nước các cấp.
Các Liên hiệp hội địa phương và hội ngành trung ương có các kiến nghị gần như thống nhất về nội dung. Với gần 10 kiến nghị, có thể tập hợp và chia làm 3 nhóm chính, như sau.
(1) Cần đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động nhằm thu hút thêm nhiều cán bộ KH&CN tham gia tổ chức hội. Phát triển thêm nhiều loại hình tập hợp và có các chuẩn mực đối với hội viên, đặc biệt là việc đáp ứng và bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của hội thành viên, hội viên.
Hỗ trợ đào tạo cán bộ, bồi dưỡng về nghiệp vụ công tác hội nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ thực sự có năng lực, có tâm huyết, có điều kiện và sức khỏe làm việc cho hội.
(2) Tăng cường vai trò đầu mối, kết nối để tạo điều kiện và hỗ trợ các hội thành viên trong đào tạo nâng cao năng lực, chia sẻ thông tin và kinh nghiệm hoạt động; thực hiện các dự án, đề án liên ngành đưa KH&CN vào đời sống, sản xuất; mở ra các loại hình tổ chức mới trong các hoạt động nghề nghiệp, dịch vụ, tư vấn phản biện và giám định xã hội, nghiên cứu khoa học; xây dựng các mối quan hệ với các tổ chức quốc tế.
(3) Hoàn thiện qui chế về mối quan hệ hợp tác, điều hòa, phối hợp hoạt động giữa Liên hiệp hội (ở trung ương và địa phương) và các hội KHKT ngành, đặc biệt là mối quan hệ giữa Đoàn Chủ tịch Hội đồng Trung ương với các Ban chấp hành hội thành viên.
Các liên hiệp hội địa phương và hội ngành trung ương có kiến nghị chung là Nhà nước sớm có Luật về hội và cho phép các chuyên gia của Liên hiệp hội được tham gia xây dựng Luật đó ngay từ đầu; giao thêm nhiệm vụ , một số dịch vụ công (chứng chỉ hành nghề , văn bằng tương đương với nước ngoài, đạo đức nghề nghiệp…) cho các hội thực hiện; có chính sách phù hợp để các hội tiếp cận các nguồn lực đầu tư cho KH&CN ; thành lập quỹ phát triển KH&CN và ban hành cơ chế khuyến khích hoạt động KH&CN. Đề nghị Nhà nước có chủ trương phát triển mạnh và sử dụng tư vấn độc lập trong các dự án phát triển.
Các liên hiệp hội địa phương kiến nghị Đảng và Nhà nước quan tâm hơn về việc nâng cao nhận thức cho các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phươngvà các tổ chức khác về vị trí, vai trò, tính chất chính trị-xã hội của Liên hiệp hội trong hệ thống chính trị ở địa phương; tái lập Đảng Đoàn để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng; từ đó tạo cơ hội cho liên hiệp hội địa phương hoạt động có hiệu quả trong vận động và tập hợp trí thức, tư vấn, phản biện và giám định xã hội và thực hiện các đề tài, dự án nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ.
IV- Đánh giá chung
Trong nhiệm kì qua, thông qua việc thực hiện Chỉ thị 45-CT/TW, việc tập hợp và đoàn kết trí thức KH&CN trong Liên hiệp hội có bước phát triển mới, đạt được một số kết quả tốt; các hoạt động của Liên hiệp hội ngày càng phong phú, thiết thực, góp phần tích cực động viên trí thức khoa học và công nghệ tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hoạt động chính trị-xã hội của Liên hiệp hội ngày càng rõ nét, thể hiện trong việc tập hợp, đoàn kết và vận động trí thức KHCN tham gia đóng góp ý kiến với Đại hội Đảng các cấp, với các văn kiện lớn của Đảng, Nhà nước, chính quyền các cấp; tích cực hoạt động trong hệ thống chính trị của nước ta và tham gia các phong trào, cuộc vận động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; tham gia nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, áp dụng các công nghệ tiến bộ vào sản xuất và đời sống, phát triển kinh tế-xã hội, bảo vệ môi trường, bảo vệ đa dạng sinh học và sử dụng hợp lí tài nguyên thiên nhiên ; phổ biến kiến thức cùng với chuyển giao tiến bộ KHKT bằng nhiều biện pháp cụ thể, dễ tiếp thu đã góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, thay đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, xóa đói, giảm nghèo cho một bộ phận dân cư trong nông thôn, vùng sâu, vùng xa và vùng dân tộc thiểu số ; đẩy mạnh các hoạt động tham gia xã hội hóa KH&CN, giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức khỏe nhân dân và phòng chống bệnh hiểm nghèo ; thường xuyên tổ chức các hội thi, giải thưởng sáng tạo kĩ thuật, sáng tạo KHCN nhằm thúc đẩy việc gắn KH&CN với sản xuất, kinh doanh, đồng thời phát hiện, giúp đỡ , động viên, bồi dưỡng tài năng sáng tạo trong trí thức KHCN và trong nhân dân. Hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội là một trong số nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của nhiệm kì IV. Nhiệm vụ này được Hội đồng trung ương xây dựng thành “Chương trình hành động triển khai quyết định 22/TTg” trong toàn Liên hiệp hội trong 2 năm (2003-2004). Rất nhiều ý kiến tư vấn, phản biện của Liên hiệp hội ở trung ương và địa phương đối với các đề án phát triển được Quốc hội, Chính phủ và UBND các tỉnh, thành lắng nghe, chấp thuận. Gần đây, Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến sẽ phối hợp Liên hiệp hội với các đơn vị chức năng đẩy mạnh công tác tư vấn, giám sát, tiến tới thành lập các cơ quan giám sát chất lượng công trình hoàn toàn độc lập.
Cùng với các hoạt động không ngừng được mở rộng và có hiệu quả, ngày càng có thêm nhiều nhà khoa học của Liên hiệp hội tham gia Quốc hội, ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Hội đồng nhân dân các cấp; nhiều nhà khoa học được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh, giải thưởng Nhà nước về KH và CN, giải thưởng sáng tạo KHCN Việt Nam; nhiều danh nhân văn hóa, nhà khoa học có công với nước được Đảng, Nhà nước và xã hội tôn vinh. Mặt khác, đã có thêm nhiều tổ chức quốc tế đang hoạt động tại Việt Nam đặt quan hệ đối tác với Liên hiệp hội trong các hoạt động khoa học và công nghệ, nghiên cứu xã hội, tư vấn, phản biện và giám sát, phát triển cộng động và xóa đói giảm nghèo. Vị thế của Liên hiệp hội trong xã hội và trong con mắt các tổ chức KHCN quốc tế và khu vực ngày càng nâng cao.
Tuy vậy, so với yêu cầu phát triển và tiềm năng thì việc tập hợp trí thức KH &CN của Liên hiệp hội còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng đòi hỏi, đặc biệt là đối với lực lượng trí thức trẻ, trí thức trong các doanh nghiệp. Trí thức là người Việt nam ở nước ngoài chưa thực sự quan tâm và tham gia các hoạt động của Liên hiệp hội (khoảng 25-30 vạn người); hạn chế này, một phần do Liên hiệp hội chưa đủ năng lực cần thiết, phần chủ yếu khác do cơ chế quản lí của Nhà nước về vấn đề này chưa thông thoáng.
Liên hiệp hội chưa có nhiều điều kiện để đóng góp, tham gia giải quyết những vấn đề lớn, bức xúc của đất nước trong phát triển KH&CN và bảo vệ môi trường, Giáo dục và Đào tạo, tăng trưởng kinh tế và công tác trí thức; chưa thể hiện được vai trò nòng cốt trong việc tổ chức các phong trào quần chúng tiến quân vào KHKT; mặt khác, chậm tổng kết, đánh giá và phổ biến những kết quả KH và CN.
Hoạt động của các Liên hiệp hội địa phương còn nhiều lúng túng và khó khăn về cơ chế, chính sách, cơ sở vật chất; sự phối hợp hoạt động giữa trung ương và địa phương còn ít. Mặt khác, thiếu các biện pháp cụ thể về tổ chức, phối hợp, liên kết và hỗ trợ lẫn nhau giữa các cấp hội ở trung ương, giữa hội trung ương và địa phương và giữa các hội thành viên trong từng vùng lãnh thổ trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Liên hiệp hội. Sự chỉ đạo của Đoàn Chủ tịch Hội đồng trung ương trong toàn hệ thống Liên hiệp hội còn hạn chế, chưa rõ nét và thiếu cụ thể.
Bộ máy tổ chức của Liên hiệp hội ở trung ương, ở địa phương và hội ngành thiếu cán bộ chuyên trách có tâm huyết, năng lực và kinh nghiệm. Chức năng, nhiệm vụ, qui chế và cơ chế quản lí của cơ quan Liên hiệp hội ở trung ương và địa phương chưa được hoàn thiện. Tư tưởng chờ đợi bao cấp vẫn tồn tại trong nhận thức của một số cán bộ lãnh đạo cấp hội. Không ít hội thành viên chưa thấy được vai trò tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động, do vậy thiếu năng động, chủ động; không ít tổ chức còn hoạt động theo thói quen hành chính.
Cơ sở vật chất kĩ thuật của toàn Liên hiệp hội còn nghèo nàn. Nói chung, các nhà khoa học phải tự lo mọi điều kiện để thực hiện công việc của hội. Các Liên hiệp hội (ở trung ương và địa phương) tuy được Nhà nước hỗ trợ về kinh phí và biên chế nhưng rất hạn hẹp và khó khăn.
Trong thực tế, Chỉ thị 45/CT-TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) “Về đẩy mạnh hoạt động của Liên hiệp các hội khoa học và kĩ thuật Việt Nam” mới chỉ đề cập đến vị trí, vai trò và một số nhiệm vụ chủ yếu của Liên hiệp hội, chưa giao nhiệm vụ cụ thể cho các cấp ủy và chính quyền trong việc quán triệt, tổ chức triển khai thực hiện Chỉ thị này. Do vậy, việc thể chế Chỉ thị 45-CT/TW thành văn bản nhà nước còn chậm.
Thực tiễn hoạt động của Liên hiệp hội ở Trung ương và địa phương trong nhiều năm qua cho phép rút ra một số kinh nghiệm để tham khảo trong hoạt động thời gian tới, đó là:
Thứ nhất. Tổ chức và hoạt động của Liên hiệp hội mang tính đặc thù riêng, không thể dập khuôn theo bất kì mô hình mẫu nào khác. Do vậy, trước hết, nơi nào cán bộ Hội chủ động, năng động, sáng tạo trong hoạt động, biết tập hợp và tổ chức các hội thành viên và hội viên để xây dựng nội dung và phương thức hoạt động thích hợp, biết rút ra những kinh nghiệm hay trong hoạt động của các đơn vị bạn để noi theo, biết xác định rõ ràng những phần việc cần có sự hỗ trợ của Nhà nước và những phần việc mà các hội phải tự làm trên cơ sở những dự án, chương trình đem lại hiệu quả thiết thực cho hội viên, người dân và xã hộithì nơi đó hoạt động hội sôi nổi và có hiệu quả, tổ chức hội tự khẳng định được vị trí, vai trò của mình trong cộng đồng, được Đảng, chính quyền tin cậy và tạo điều kiện thuận lợi.
Thứ hai.Sựquan tâm của cấp ủy Đảng, chính quyền là một trong những điều kiện quyết định thành công của các hoạt động hội. Sự quan tâm này thể hiện ở sự chỉ đạo cụ thể của cấp ủy Đảng và kế hoạch phối hợp hành động rõ ràng của chính quyền. Đây là bài học kinh nghiệm quí báu đã được tổng kết từ thực tế hoạt động phát triển cộng đồng, xóa đói giảm nghèo và chuyển giao tiến bộ kĩ thuật ở cơ sở của rất nhiều hội thành viên và các đơn vị KHCN . Việc xây dựng các mối quan hệ hợp tác tốt với các cơ quan, Ban, ngành của Đảng, Chính quyền và Đoàn thể ở Trung ương và địa phương là nhiệm vụ quan trọng của Lãnh đạo các cấp hội và là một đảm bảo thành công trong hoạt động hội.
Chính nhờ các nhân tố tích cực đó nên trong nhiệm kì qua, sau khi có Chỉ thị 45-CT/TW của Bộ Chính trị, Chính phủ đã lần lượt ban hành các văn bản quan trọng, tạo khuôn khổ pháp lí ngày càng thuận lợi cho hoạt động của toàn bộ hệ thống các tổ chức thuộc Liên hiệp hội.
Thứ ba.Trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ chung của toàn Liên hiệp hội và của mỗi hội thành viên, sự hợp tác đa ngành, liên ngành và giữa các hội thành viên theo ngành hoặc theo vùng lãnh thổ là rất cần thiết và đem lại hiệu quả tốt , đặc biệt là trong hoạt động tư vấn, phản biện, chia sẻ kinh nghiệm nâng cao năng lực hoạt động, đồng tổ chức các chương trình, dự án tại cơ sở.
Thứ tư.Những hoạt động của Liên hiệp hội hướng về cơ sở, trước hết phải đáp ứng đúng những nhu cầu bức xúc trong sản xuất và đời sống của người dân địa phương . Các nhà khoa học của Liên hiệp hội đã chuyển giao những tiến bộ kỹ thuật mà người dân cần, với sự tham gia tích cực của người dân và chính quyền địa phương, trong đó chính quyền địa phương và cộng đồng tự làm là chính đã đem lại những lợi ích thiết thực cho người dân và góp phần tích cực thực hiện “Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo” của Chính phủ.