Liên hiệp các hội và khoa học kỹ thuật Việt Nam
Thứ năm, 31/03/2005 21:13 (GMT+7)

Báo cáo các Uỷ ban kiểm tra Liên hịêp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam (Nhiệm kỳ 1993-1998)

A - VỀ TÌNH HÌNH LIÊN HIỆP HỘI:

Ủy ban Kiểm tra Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam nhất trí về cơ bản với báo cáo nhiệm kỳ 1993 - 1998 của Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam đã trình bày trước Đại hội.

Trên cơ sở phát huy những cố gắng của cả hệ thống nhằm duy trì và đẩy tới một số hoạt động thuộc chức nǎng nhiệm vụ của mình trong hoàn cảnh có nhiều khó khǎn, Đoàn Chủ tịch Liên hiệp hội và các hội thành viên trong nhiệm kỳ qua đã thu được một số thành tích đáng khích lệ về mặt phát triển tổ chức hội ở Trung ương và nhất là ở địa phương (phát triển thêm được 16 LHH địa phương tỉnh, thành và 6 hội chuyên ngành TW); mở rộng và thắt chặt được mối quan hệ công tác của Liên hiệp hội và các hội với các ngành chính quyền có chức nǎng quản lý khoa học và công nghệ hoặc có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự nghiệp khoa học và công nghệ phát triển như: Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Công nghiệp, các trung tâm nghiên cứu khoa học quan trọng của đất nước... Mặt khác vẫn đẩy mạnh được các hoạt động phổ biến kiến thức và đào tạo bồi dưỡng qua mạng lưới báo chí, câu lạc bộ và trường lớp ngày càng mở rộng của Liên hiệp hội và các hội thành viên. Hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội ngày càng được mở rộng đã khẳng định thế mạnh và uy tín của tổ chức hội khoa học và kỹ thuật trong hoạt động này ở nhiều lĩnh vực. Công tác đối ngoại vẫn được duy trì và có phần đi vào chiều sâu giúp củng cố và mở rộng quan hệ giữa Liên hiệp hội, các hội thành viên với các tổ chức khoa học quốc tế và nước ngoài trong bối cảnh khủng hoảng và suy thoái kinh tế trong khu vực và trong nhiều nước trên thế giới.

Tuy nhiên, để có thể tiếp tục phát triển một cách ổn định và vững chắc nhất là trước yêu cầu của tình hình nhiệm vụ mới, chúng ta không thể chỉ chú ý ghi nhận những thành tích, những kết quả tích cực đã đạt được mà cũng cần phải có thái độ dám nhìn thẳng vào thực tế để thấy được những chỗ yếu kém, những khuyết, nhược điểm của phòng trào, trên cơ sở đó tìm ra nguyên nhân chủ quan, khách quan đã gây trở ngại cho sự vận động phát triển của hệ thống.

Chúng tôi nghĩ rằng, đây là việc làm rất cần thiết khi chúng ta tiến hành Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV nhằm kết thúc một nhiệm kỳ hoạt động, đồng thời cũng đánh dấu cả quá trình 15 nǎm hình thành và phát triển của Liên hiệp hội, một tổ chức mang nhiều tiềm nǎng trí tuệ và hứa hẹn một sự thích ứng cao với thời đại nếu được tạo điều kiện tối thiểu và nếu chúng ta biết tổ chức và quản lý tốt. Nhiệm vụ của chúng ta vào dịp này là phải tiến hành tổng kết sâu sắc để rút ra những bài học kinh nghiệm về tổ chức và quản lý cho cả chặng đường 15 nǎm qua như Chỉ thị 45-CT/TW ngày 11-11-1998 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương đã nhấn mạnh. Việc tổng kết này cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc đề ra những phương hướng hoạt động đúng đắn và có hiệu quả của Liên hiệp hội trong nhiệm kỳ tới (1999 - 2004), một nhiệm kỳ xuyên thế kỷ đòi hỏi ở tầng lớp trí thức những nỗ lực lớn.

Có thể nói những thành tích của Liên hiệp hội trong nhiệm kỳ vừa qua kết hợp với những thành quả trong 10 nǎm trước kể từ ngày thành lập (29-7-1983) đã khẳng định vị trí, vai trò của Liên hiệp hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, như một nhân tố mới không thể thiếu được đại diện cho tầng lớp trí thức trong hệ thống chính trị - xã hội của đất nước.

Về những vấn đề tồn tại của phong trào, chúng tôi tán thành về cơ bản nhận định chung đã nêu trong phần tổng quan về đánh giá tình hình của bản báo cáo của Đoàn Chủ tịch Liên hiệp hội.

Tuy nhiên, chúng tôi cũng muốn bổ sung nhấn mạnh và làm rõ thêm một số vấn đề tồn tại chung về hoạt động của hệ thống hội chúng ta.

1 - Về phát triển tổ chức, trên bình diện chung nhìn về các địa phương ta chỉ mới thấy có 24 trên 61 tỉnh, thành trong toàn quốc có Liên hiệp hội. Mặc dầu đã có nhiều cố gắng, song đây vẫn là một tỷ lệ còn thấp nếu đem đối chiếu với yêu cầu phát triển khoa học và công nghệ địa phương hướng vào mục tiêu công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Chúng tôi nghĩ, cần tích cực tổ chức phát triển mạng lưới hội ở các địa phương mạnh mẽ hơn, vì đó là cách đưa ánh sáng khoa học và kỹ thuật về với quần chúng nhân dân ở các địa bàn nông thôn rộng lớn và các vùng xa xôi hẻo lánh, những vùng không những nghèo về kinh tế mà cũng nghèo về chữ nghĩa và tri thức khoa học, song lại có vị trí chính trị, xã hội, kinh tế và quốc phòng rất quan trọng.

Đối với các hội thành viên đã thành lập thì hoạt động còn chưa đồng đều, có hội hoạt động tốt, có nề nếp và toàn diện, tranh thủ được sự tín nhiệm lớn của quần chúng; một số hội có những cố gắng về từng mặt trong hoàn cảnh khó khǎn đáng được biểu dương và khích lệ; nhưng cũng có những hội ít có biểu hiện hoạt động, phong trào rời rạc, từ ngày thành lập không có tác động gì tích cực đáng kể đối với sự phát triển khoa học và công nghệ chung của cả nước. Cũng đã đến lúc Hội đồng Trung ương và Đoàn Chủ tịch cần phải có kế hoạch và biện pháp tích cực hỗ trợ các hội yếu vươn tới hoà nhập với phong trào chung.

2 - Để đáp ứng yêu cầu hoạt động của mình, Liên hiệp hội và các hội đã thành lập nên những đơn vị trực thuộc với số lượng kể đến hàng trǎm hoạt động đa dạng theo các chức nǎng, nhiệm vụ khác nhau. Trong số đó, phải ghi nhận có một số đơn vị hoạt động tốt, gây được ảnh hưởng lớn, làm tǎng uy tín của hội, nhưng cũng có đơn vị hoạt động không có hiệu quả hoặc gần như không có hoạt động gì, thậm chí có trường hợp còn hoạt động sai tôn chỉ, mục đích vượt ra ngoài giới hạn chức nǎng nhiệm vụ cho phép, vi phạm Điều lệ và Quy chế hoạt động của Liên hiệp hội, gây tổn thương cho uy tín của hội chủ quản và của Liên hiệp hội. Cần có biện pháp tích cực rà soát mạng lưới các đơn vị này, cổ vũ và khuyến khích các đơn vị làm ǎn tốt và có hiệu quả, giúp đỡ các đơn vị trung bình khắc phục khó khǎn vươn lên hoạt động tốt, mặt khác, kiên quyết chấn chỉnh, thậm chí giải thể những đơn vị làm ǎn không có hiệu quả hoặc có biểu hiện tiêu cực.

3 - Bao trùm lên cả vẫn là những tồn tại về tổ chức và cơ chế. Vấn đề củng cố, kiện toàn và không ngừng đổi mới tổ chức và cơ chế hoạt động luôn nên đặt ra đối với một hệ thống mới hình thành và đang trong quá trình định hình như hệ thống hội chúng ta.

Thực tiễn cũng cho thấy rằng, những thiếu sót hoặc lệch lạc về mặt nhận thức và quan điểm trong công tác lãnh đạo và quản lý hội trong khi cơ chế còn chưa hoàn thiện, tình trạng thiếu nghiên cứu lý luận và đúc kết kinh nghiệm, tác phong làm việc của một số người lãnh đạo và quản lý chưa nhuần nhuyễn công tác quần chúng v.v... dễ làm cho hội trở thành một tổ chức xơ cứng, hoạt động theo cơ chế hành chính, quan liêu, thậm chí sa vào chủ nghĩa gia trưởng, xa rời mô hình của một đoàn thể xã hội đòi hỏi những quyết định tập thể, đòi hỏi sự mở rộng dân chủ, nhất là đối với một tổ chức xã hội của tầng lớp trí thức.

4 - Trong Liên hiệp hội chúng ta còn một loạt vấn đề về tổ chức cần được tiếp tục làm sáng rõ về nhận thức, được định hình về mô thức từ trên xuống dưới để có thể phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống. Tại Đại hội lần này, ít nhất ta cũng phải giải quyết một bước một số vấn đề bức xúc về lý luận và thực tiễn của tổ chức và cơ chế hoạt động hội. Cần sớm lập một bộ phận chuyên nghiên cứu về vấn đề hệ trọng này.

Về tổ chức, đó là những vấn đề:

- Tiêu chí thành lập hội khoa học và công nghệ chưa có, tình hình này đã gây ra sự lộn xộn trong các quyết định cho lập hội, tạo ra những tiền lệ không hay gây khó khǎn cho quản lý và chỉ đạo. Vài nǎm gần đây, việc thành lập một số hội vượt ra ngoài tầm tay của Liên hiệp hội vì chưa có một quy trình xét duyệt chặt chẽ dựa trên sự phối hợp của Liên hiệp hội với các cơ quan Đảng và Nhà nước có trách nhiệm trước khi trình lên Thủ tướng quyết định.

- Tiêu chí hội viên của một hội khoa học và kỹ thuật trong điều kiện Việt Nam hiện nay chưa được xây dựng thống nhất. Đã có những quan niệm rất khác nhau về vấn đề này dẫn đến tình trạng kết nạp hội viên rất khác nhau.

- Hệ thống cấp hội từ Trung ương xuống địa phương và cơ sở, và kèm theo đó là tư cách pháp nhân, chức nǎng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cấp tổ chức này chưa được phân định rõ ràng.

Ở cấp Trung ương, hệ thống trực thuộc không rõ, một số hội ngành vừa trực thuộc Liên hiệp hội, vừa trực thuộc Mặt trận Tổ quốc.

Sự phân hoá các ngành khoa học và công nghệ đã tạo ra quá trình hình thành những hội chuyên ngành trong hội ngành và từ đó phát sinh vấn đề xây dựng các tổng hội; quá trình phân hoá cũng làm cho một số hội chuyên ngành trước kia nằm trong hội ngành nay có điều kiện phát triển lại muốn vươn lên thành hội độc lập, tách ra khỏi hội ngành; xu hướng phát triển theo lãnh thổ mang tính tất yếu cũng tạo nên các tổ chức hội tương ứng ở địa phương đặt vấn đề xây dựng các mối quan hệ ngang dọc ra sao với địa phương và với Trung ương. Đó là chưa kể các cơ sở lớn nơi tập trung đông đảo các nhà khoa học có trình độ cao: trung tâm nghiên cứu, viện nghiên cứu, trường đại học, bệnh viện v.v... Cách gọi tên của các cấp hội cũng khá lộn xộn: hội ngành, hội chuyên ngành, chi hội, phân hội v.v... ở Trung ương và địa phương. Tình hình đòi hỏi phải có một quá trình nghiên cứu sắp xếp các tổ chức hội ở các cơ sở này vào một hệ thống để có thể quản lý và chỉ đạo theo một quy chế thống nhất.

- Củng cố và kiện toàn cơ quan đầu não của Liên hiệp hội và các hội thành viên từ bộ phận lãnh đạo cao nhất đến bộ máy làm việc nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động.

Đoàn Chủ tịch Liên hiệp hội chỉ nên có số lượng vừa phải, có cơ cấu hợp lý bao gồm những nhà khoa học có uy tín song phải có điều kiện làm việc thực sự cho Liên hiệp hội. Bộ phận thường trực chuyên trách của Đoàn Chủ tịch phải được tǎng cường.

Cơ quan Liên hiệp hội hiện nay vừa mỏng, vừa yếu cần phải tǎng cường về số lượng và chất lượng ở những bộ phận cần thiết để đáp ứng yêu cầu về tham mưu, về chỉ đạo giúp Đoàn Chủ tịch điều hành công việc.

Về cơ chế, đó là những vấn đề:

- Mối quan hệ giữa Liên hiệp hội và các hội với các cơ quan Nhà nước các cấp về xây dựng tổ chức (Ban Tổ chức Chính phủ), về tài chính và đầu tư (Bộ Kế hoạch và đầu tư; Bộ Tài chính), về phương hướng hoạt động khoa học và công nghệ (Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Bộ Giáo dục và Đào tạo, các Trung tâm Khoa học Quốc gia) v.v...

- Mối quan hệ giữa Liên hiệp hội với các hội thành viên bao gồm các hội, tổng hội ngành Trung ương và các Liên hiệp hội tỉnh, thành, hiện nay còn những quan niệm khác nhau. Liên hiệp hội đã xây dựng quy chế công tác nhưng quy chế đó chưa được thực hiện chặt chẽ và cần cải tiến theo hướng tǎng cường các mối quan hệ giữa Liên hiệp hội và các hội thành viên trong mọi hoạt động nhằm thực sự phát huy vai trò điều hòa phối hợp của Liên hiệp hội và làm cho các hội thành viên gắn bó với Liên hiệp hội hơn trên cơ sở lợi ích riêng của từng hội và lợi ích chung của toàn Liên hiệp hội.

Một cơ chế mới sẽ nhân lên sức mạnh của toàn hệ thống Liên hiệp hội vốn rất giàu tiềm nǎng về trí tuệ.

- Mối quan hệ trong nội bộ cơ quan đầu não của Liên hiệp hội, giữa Đoàn Chủ tịch và các tổ chức Đảng (Đảng đoàn, Đảng ủy) trong Liên hiệp hội, giữa Đoàn Chủ tịch và các ban trong cơ quan thường trực Liên hiệp hội, v.v... Hiện nay bộ máy cơ quan chưa có các quy chế để làm rõ sự phân công, phân nhiệm, chế độ công tác và lề lối làm việc nhằm phát huy hiệu lực tham mưu và chỉ đạo giúp Đoàn Chủ tịch điều hành hoạt động của cả hệ thống.

- Đối với một tổ chức mới như Liên hiệp hội của chúng ta, cũng cần thiết phải xây dựng một chế độ sinh hoạt chặt chẽ và quy củ. Hội đồng Trung ương, cơ quan có quyền quyết định cao nhất đối với những vấn đề lớn của Liên hiệp hội, họp một nǎm một lần là quá ít. Đó là chưa kể thời gian họp thường kỳ cũng quá hạn hẹp chưa cho phép các đại biểu đi sâu bàn bạc thảo luận những vấn đề quan trọng thuộc về tình hình nhiệm vụ, về những vướng mắc tổ chức và cơ chế cần có biện pháp tháo gỡ, về kinh nghiệm hoạt động hội v.v... Ngoài các kỳ họp Hội đồng Trung ương hàng nǎm, (nên chǎng là 2 kỳ), cần có một chế độ họp hành gọn nhẹ và linh hoạt tổ chức theo từng chuyên đề, từng khu vực để có thể kịp thời huy động trí tuệ của toàn hệ thống đóng góp vào những vấn đề chung.

Nhiều ý kiến cũng đề nghị cần đưa cơ chế bầu cử các cơ quan lãnh đạo của Liên hiệp hội và các hội vào nền nếp nghiêm túc nhằm phát huy dân chủ thực sự bằng cách thực hiện chế độ bầu cử phiếu kín ở các cấp.

Về những vấn đề tổ chức và cơ chế trên đây, chúng tôi thiết nghĩ chúng ta phải tự làm lấy, xây dựng lấy trên cơ sở nghiên cứu lý luận kết hợp tham khảo kinh nghiệm trong và ngoài nước, đặc biệt là tổng kết kinh nghiệm thực tiễn hội trong nhiều nǎm qua. Những điều tổng kết sẽ được đưa vào Điều lệ bổ sung và sửa đổi, đưa vào quy chế làm việc của Liên hiệp hội, và đề nghị các cơ quan Đảng và Nhà nước tôn trọng như một sự hợp thức hoá trong khi luật mới về hội chưa ban hành.

B - VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA UỶ BAN KIỂM TRA LIÊN HIỆP HỘI:

Trong hoàn cảnh khó khǎn chung về công tác kiểm tra, thanh tra của mọi ngành, mọi cấp trong toàn quốc, hoạt động thanh tra, giám sát của Ủy ban Kiểm tra Liên hiệp hội cũng có nhiều trở ngại. Trước hết là những vấn đề về tổ chức và cơ chế, vị trí, vai trò, chức nǎng nhiệm vụ của Ủy ban, ở đây còn có những điều cần cụ thể hoá; quy chế phối hợp hoạt động giữa Đoàn Chủ tịch (cơ quan điều hành) và Ủy ban Kiểm tra (cơ quan giám sát) chưa được hình thành; toàn bộ các thành viên của Ủy ban Kiểm tra đều hoạt động kiêm nhiệm trong hoàn cảnh không có cán bộ giúp việc, v.v... Tuy nhiên, được sự hỗ trợ của Đoàn Chủ tịch khi cần thiết và được sự hưởng ứng của các hội thành viên và các đơn vị, Ủy ban Kiểm tra đã làm tốt được một số công việc trong nhiệm kỳ qua như sau:

- Theo dõi chặt chẽ việc thực hiện tôn chỉ, mục đích và chấp hành điều lệ Liên hiệp hội của các hội thành viên.

- Phát hiện và góp phần tham gia giải quyết những vụ việc vi phạm luật pháp hoặc điều lệ Liên hiệp hội ở một số hội thành viên hoặc ở một số đơn vị trực thuộc Liên hiệp hội như: mất đoàn kết nội bộ, tranh chấp đất đai, phát triển tổ chức và mở rộng hoạt động vượt ra ngoài các giới hạn cho phép về chức nǎng, nhiệm vụ và địa bàn v.v...

- Qua các hội nghị tổng kết hàng nǎm đã đề xuất với Đoàn Chủ tịch và Hội đồng Trung ương qua các hội nghị tổng kết hàng nǎm những kiến nghị về đổi mới tổ chức và cơ chế quản lý nhằm đưa dần hoạt động của Liên hiệp hội đi vào nề nếp và đạt hiệu quả, mặt khác ngǎn ngừa những hiện tượng tiêu cực. Riêng trong nǎm 1997 và trong nǎm 1998 đã tổ chức hai hội nghị về công tác kiểm tra gồm đại diện một số hội để trao đổi nhận thức và kinh nghiệm về công tác kiểm tra trong Liên hiệp hội. Các hội nghị này đã có những đóng góp thiết thực về phương hướng kiện toàn tổ chức và nhất là đổi mới cơ chế hoạt động nhằm đảm bảo cho hội hoạt động đúng hướng theo tôn chỉ, mục đích đã đề ra.

- Các thành viên trong Ủy ban Kiểm tra làm việc đều tay, mọi quyết định đều được bàn bạc tập thể, dân chủ.

Bên cạnh những việc đã làm được, hoạt động của Ủy ban Kiểm tra còn có một số thiếu sót sau:

- Trong hoàn cảnh khó khǎn vì thiếu người, thiếu phương tiện, việc đi sâu đi sát thường xuyên các hội còn hạn chế, việc phát hiện các vụ việc còn chậm, thiếu kiên quyết đề xuất với Đoàn Chủ tịch chủ trương và biện pháp xử lý những đơn vị làm sai.

- Trong công tác kiểm tra, giữa Đoàn Chủ tịch và Ủy ban Kiểm tra còn chưa có sự phối hợp chặt chẽ, nên có khi bên này hoặc bên kia thiếu thông tin, mỗi bên lại có quan điểm và cách xử lý khác nhau, nên có những vụ việc để kéo dài gây hậu quả không tốt. Ủy ban Kiểm tra chưa thẳng thắn đề xuất với Đoàn Chủ tịch những vấn đề về tình hình để cùng phối hợp hành động trong công tác ngǎn ngừa những hiện tượng sai lệch.

Để khắc phục những tồn tại trong hoạt động kiểm tra, chúng tôi xin đề nghị:

- Đại hội lần này cần làm rõ những vấn đề về vị trí, vai trò và chức nǎng, nhiệm vụ của Ủy ban Kiểm tra Liên hiệp hội và các ban kiểm tra của các hội trong hệ thống tổ chức của Liên hiệp hội. Cần cụ thể hoá đối tượng những vấn đề về kiểm tra, nội dung kiểm tra, phương thức kiểm tra và trách nhiệm, quyền hạn của Ủy ban Kiểm tra các cấp hội trong việc xét xử các vấn đề, kể cả việc thi hành kỷ luật.

- Xây dựng quy chế phối hợp công tác giữa Đoàn Chủ tịch và Ủy ban Kiểm tra trong hoạt động kiểm tra, xây dựng bộ máy của cơ quan thường trực Liên hiệp hội, trong đó có biên chế chuyên trách công tác kiểm tra (có thể vừa kiêm công tác tổ chức hoặc công tác Đảng).

- Củng cố và kiện toàn hệ thống kiểm tra của Liên hiệp hội từ Trung ương xuống các hội thành viên trên cơ sở thống nhất chức nǎng, nhiệm vụ, quyền hạn và chế độ làm việc để phát huy hiệu lực kiểm tra.

- Tǎng số lượng thành viên của Ủy ban Kiểm tra Hội đồng Trung ương Liên hiệp hội từ 5 đến 7 người, trong đó có 3 ủy viên đại diện cho ba miền Bắc, Trung, Nam để giúp Ủy ban có thể bao quát tình hình chung cả nước.

Xem Thêm

Kỷ niệm 5 năm thành lập báo điện tử Tầm nhìn
Tại Lễ kỷ niệm thay mặt Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, ông Phan Tùng Mậu đã chúc mừng tập thể cán bộ, phóng viên báo điện tử Tầm Nhìn nhân dịp 5 năm thành lập, ghi nhận những thành quả mà...
Chiến thắng vĩ đại mùa Xuân 1975
Chiến dịch lịch sử  Lúc này, tập đoàn phòng ngự lớn của địch ở Sài Gòn - Gia Định tuy số lượng còn đông nhưng đã bị chia cắt, cô lập cao độ và sức chiến đấu đã giảm sút hẳn. 
Vẻ đẹp đặc hiệu của nhà trí thức
Vàng là đẹp, là quý giá. Nhưng không phải vàng nào cũng giá trị như nhau? Có vàng thật, có vàng giả, có cả mạ vàng như thật. Học thức và bằng cấp cũng vậy. Có học thật, có học giả, có bằng thật, có bằng giả như thật. Đại...
Mùa Xuân là Tết trồng cây
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã đề xướng, tổ chức, xây dựng Tết trồng cây trở thành một phong trào quần chúng rộng rãi, sôi nổi và bền vững. Tháng 11-1959, nhân đợt thi đua lấy thành tích mừng Đảng ta 30 tuổi, Chủ tịch Hồ Chí Minh...
Bác Hồ vui Tết đón Xuân trong lòng Tổ quốc
Tết Mậu Tý (1948) Tết mừng chiến thắng Thu Đông năm Đinh Hợi phá tan cuộc tấn công của giặc Pháp lên Việt Bắc và phấn khởi mừng thọ Bác Hồ 58 tuổi: Chính phủ họp nghe Bộ Quốc phòng báo cáo chiến thắng giặc Pháp tại An toàn khu.
Đại tướng Lê Trọng Tấn - Những ngày đầu cách mạng
Giữa năm 1942, tôi đến một cơ sở cách mạng ở làng Lương Yên. Đang nói chuyện thì một quân nhân trong bộ đồ nhà binh Pháp ở phía cổng đi vào. Tôi lánh sang buồng bên cạnh nói chuyện với các em đang học. Khi người ấy về, chủ...

Tin mới

Quảng Ngãi: Tuyên truyền chủ trương của Đảng cho trí thức
Chiều ngày 19/11, Liên hiệp Hội tỉnh đã phối hợp với Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy tổ chức hội nghị thông tin, tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cho đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Ngãi với chủ đề: “Tình hình xung đột Israel-Hamas, Hezbollah; xung đột Nga-Ukraine. Tác động và xử lý của Việt Nam”.
Đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp giảm thiểu tác động của đốt mở tại Việt Nam
Mặc dù 68% số người được khảo sát có ý thức về môi trường, 80% có ý thức về sức khỏe, nhưng vẫn thể hiện sẽ tiếp tục “đốt đồng” (đốt lộ thiên/đốt mở trong nông nghiệp), với lý do chủ yếu “vì tin có tác dụng tốt, nhanh, rẻ”. Do vậy, cần có giải pháp truyền thông phù hợp để thay đổi thói quen này.
Phát huy vai trò, trách nhiệm của trí thức KH&CN & LHHVN trong hoạt động của MTTQVN các cấp
Nhằm thảo luận, đề xuất các giải pháp đẩy mạnh và phát huy sức mạnh trí tuệ của đội ngũ trí thức trong hệ thống LHHVN tham gia vào các hoạt động của MTTQVN, nhất là trong hoạt động TV,PB&GĐXH, LHHVN tổ chức Hội thảo Giải pháp phát huy vai trò, trách nhiệm của trí thức trong hoạt động của MTTQVN các cấp. Hội thảo được tổ chức vào chiều ngày 19/11, tại trụ sở LHHVN.
Tôn vinh và tri ân một nghề cao quý nhất
Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 hằng năm là dịp để toàn xã hội tôn vinh và tri ân những người thầy, người cô đã tận tụy cống hiến cho sự nghiệp trồng người. Đây không chỉ là ngày lễ ý nghĩa trong ngành giáo dục mà còn mang tính nhân văn sâu sắc, gắn kết tinh thần “tôn sư trọng đạo” - truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
Mạng lưới cơ sở giáo dục đại học phải đáp ứng nhu cầu nhân lực chất lượng cao
Việc quy hoạch lại hệ thống cơ sở giáo dục đại học và sư phạm giúp các cơ sở này nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu và khả năng thích ứng với những thay đổi của xã hội và nền kinh tế, cần tính toán nhu cầu đặc biệt quan trọng của đất nước về nguồn nhân lực chất lượng cao như kỹ sư bán dẫn, kỹ sư vận hành đường sắt tốc độ cao…
Tập huấn nâng cao kiến thức về chuyển đổi số cho hội viên tại tỉnh Lào Cai
Trong hai ngày 15 – 16/11, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam phối hợp với Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Lào Cai và Trường Cao đẳng Lào Cai tổ chức Hội nghị tập huấn “Nâng cao kiến thức về chuyển đổi số” tại Tp. Lào Cai. Hội nghị đã thu hút sự tham dự của hơn 100 đại biểu, học viên là hội viên của Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Lào Cai.
Đề xuất giải pháp phát triển công nghiệp SX cây giống chất lượng phục vụ phát triển cây ăn quả khu vực miền núi phía Bắc
Ngày 12/11, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam phối hợp với Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Sơn La và Hội Giống cây trồng Việt Nam tổ chức Hội thảo “Phát triển công nghiệp sản xuất cây giống chất lượng phục vụ phát triển cây ăn quả khu vực miền núi phía Bắc” tại thị trấn Nông trường Mộc Châu, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La.