Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ năm, 25/01/2007 21:00 (GMT+7)

Bàn thêm về một số đặc điểm của tục ngữ Việt

1. Một số đặc điểm của tục ngữ

1.1 Tính lịch sử

Tục ngữ là sản phẩm sáng tạo của quần chúng nhân dân trong quá trình lao động sản xuất và nhận thức thế giới khách quan. Do trải dài theo thời gian, những dấu ấn lịch sử của xã hội, của dân tộc dù ít dù nhiều cũng được lưu lại trong nhiều câu tục ngữ. Những câu tục ngữ nói về đặc sản nổi tiếng một thời của một vùng nước ta trước đây hiện vẫn còn ghi lại, như: “Dưa La, cà Láng, nem Báng, tương Bần, nước mắm Vạn Vân, cá rô đầm Sét”, hay: “Chim mía Xuân Phổ, cá bống sông Trà, kẹo gương Thu Xà, mạch nha Thi Phổ”, hoặc “Bánh đúc kẻ Đanh, bánh hành kẻ Láng”.v.v.. Chế độ phong kiến với những quan niệm lạc hậu, hủ tục nặng nề cũng còn lưu lại trong các câu tục ngữ như : “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, “Chồng chung chồng chạ ai khéo hầu hạ thì được chồng riêng”.v.v Hoặc những câu mỉa mai những tên quan tham trong xã hội cũ: “Năm tiền có chứng, một quan có cứ”, “Miệng quan, trôn trẻ”, “Quan thấy kiện như kiến thấymỡ” v.v..

Đáng chú ý là những câu mang tính lịch sử xa xưa đã được nhiều nhà nghiên cứu tục ngữ nhắc đến và bình luận về thời gian ra đời chúng, chẳng hạn: “Con dại cái mang”, “Con mống sống mang”. Có học giả cho rằng chúng có nguồn gốc từ thời kì mẫu hệ, nhưng cũng có học giả lại khẳng định chúng xuất hiện vào thời kỳ phong kiến, giai đoạn mà chế độ tông pháp thịnh hành (Theo Chu Xuân Diên – Lương Văn Đang, Phương Chi – Tục ngữ Việt Nam, Nxb KHXH 1997, tr.33) [2].

Thực tế, việc xác định thời gian ra đời của các câu tục ngữ không phải là dễ và có lẽ cũng không phải lúc nào cũng cần thiết. Tục ngữ kì diệu ở khả năng thích ứng của nó. Rất nhiều câu tục ngữ đã được “bay” rất xa, vượt thời gian và mang thêm cho mình một lớp nghĩa mới trong lớp vỏ bọc ngữ âm vốn có. Theo chiều dài của lịch sử và sự đào thải của thời gian cũng có một số câu tục ngữ hiện không còn phù hợp với xã hội hiện tại, nhưng chúng vốn vẫn là những thành viên đã từng góp sức làm nên kho tàng tục ngữ Việt.

1.2 Tính dân tộc

Nghiên cứu ngôn ngữ của một dân tộc, tất phải liên hệ đến lịch sử, văn hoá .v.v.. của dân tộc đó. Có thể nói chính đặc điểm lịch sử, văn hoá dân tộc đã hoá thân vào từng câu tục ngữ khiến chúng thấm đượm tính dân tộc.

So sánh tục ngữ Việt và tục ngữ Hán chúng ta cũng có thể thấy tính dân tộc thể hiện rất rõ trong nội dung tục ngữ. Hẳn là chỉ có thể thấy trong tục ngữ Trung Quốc chứ không phải trong tục ngữ Việt những nhân vật lịch sử nổi tiếng của lịch sử Trung quốc như Gia Cát Lượng, Không Tử, Tây Thi v.v... Tương tự, trong tục ngữ Việt xuất hiện rất nhiều nhân vật lịch sử của dân tộc như Hùng Vương, Lê Lai, Lê Lợi. Đây là vài câu tục ngữ tiêu biểu: “Dù ai đi ngược về xuôi, nhớ ngày giỗ tổ mồng mười tháng ba” hoặc “Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi”. Ngoài ra trong tục ngữ Việt chúng ta cũng thường bắt gặp tên riêng của những vùng đất với những đặc trưng về sản vật, phong cảnh và những danh nhân hay truyền thống của các địa phương: “Chè Yên Thái, gái Tiên Lữ”, “Đậu phụ Thuỷ Nhai, tú tài Hành Thiện”. Chi tiết hơn, nói về chất liệu làm gốm có: “Cỏ Chũ, đất Choá, đá Đông Triều”; Nói về sở trường từng vùng có: “Trâu Ngo, bò Chêu, dưa Chều, lợn Khám, cám Nhẹm, lẹm Ngò”. Và đặc biệt tục ngữ Việt có rất nhiều câu nói về sự tài giỏi của trai, gái các vùng với hàm ý rất đỗi tự hào: “Trai Khúc Toại, gái Hiên Ngang”, “Trai Mĩ Thái, gái Bến Tuần”, “Trai đáp Cầu đi thầu nuôi vợ, gái Thị Cầu đi chợ nuôi chồng” .v.v.. Đây cũng là những nét đặc trưng về văn hoá của mỗi vùng miền.

Tính dân tộc của tục ngữ còn thể hiện ở sự khác nhau trong tập quán và chất liệu ngôn ngữ. Cùng biểu đạt một ý nghĩa, cùng một quan hệ logich nhưng mỗi dân tộc lại có cách diến đạt khác nhau. Chẳng hạn để biểu đạt nhận xét khái quát “tinh thần lạc quan có lợi cho sức khoẻ” tục ngữ Việt có câu: “Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ”, tục ngữ Hán là: “Cười một cái , trẻ mười năm”, tục ngữ Miến Điện là: “Lạc quan làm cho người trường thọ “, còn tục ngữ Anh: “Nụ cười là liều thuốc tốt nhất”. Cùng một nhận xét khái quát “chủ nhân của sản phẩm lại không được hưởng thụ sản phẩm do chính mình làm ra” được thể hiện thành các câu tục ngữ: “Thợ rèn không dao ăn trầu”, “Hàng săng chết bó chiếu” (Việt Nam), “Thợ giầy đi chân đất” (Nga), “Thợ giày luôn đi đôi giày thủng” (Pháp), “Nhà người thợ gốm chẳng có chiếc bình lành” (Apganistan).

1.3 Tính biến thể

Về cấu trúc, tục ngữ là những câu nói ngắn gọn, súc tích, giàu hình ảnh, có tính ổn định hình thức tương đối cao. Nhiều câu tục ngữ lưu truyền trong dân gian qua bao thế hệ vẫn giữ nguyên vẹn dạng sẵn có của nó. Chính đặc điểm định hình đó cùng với nội dung vốn có bao gồm những chân lí , đạo lí mang tính nhân văn sâu sắc và những kinh nghiệm quí báu về mọi mặt đối với thiên nhiên, xã hội đã làm nên giá trị của tục ngữ. Song song với đặc điểm ổn định về hình thức, tục ngữ cũng mang trong mình tính linh hoạt bởi quá trình lưu truyền trong dân gian, tục ngữ - kho tri thức dân gian đó cũng không ngừng được quần chúng gia công, gọt giũa, nhuận sắc khiến tục ngữ được hoàn hảo hơn, súc tích hơn và phù hợp hơn với đối tượng, địa phương cũng như thời đại. Sự gia công đó đã làm xuất hiện một số biến thể của tục ngữ, tuy nhiên những biến thể này cũng không quá phức tạp, chủ yếu tập trung ở cách nói khác nhau của một số câu tục ngữ mang cùng một nội dung, biểu hiện ở một số từ ngữ khác nhau hoặc có thể thay đổi chút ít về cấu trúc. Có câu tục ngữ xuất hiện một vài từ khác nhau, thậm chí có thêm cả nhóm từ mới nhưng ý nghĩa biểu đạt của chúng hầu như không thay đổi.

Hiện tượng trên cũng tồn tại trong tục ngữ Việt. Chẳng hạn:

(1) Trẻ cậy cha, già cậy con

(2) Bé nhờ cha, già nhờ con.

(3) Bé thì nhờ mẹ nhờ cha, lớn lên nhờ vợ khi già nhờ con.

Trong tục ngữ Việt có trường hợp chỉ thay đổi một từ mà chủ đề và hàm ý thay đổi theo.

Ví dụ:

(1) Người ta là hoa dách. -> Nói về vẻ đẹp của đứa bé

(2) Người ta là hoa đất.-> Ca ngợi con người (tinh hoa)

Có khi chỉ thay đổi một từ mà làm đảo lộn chủ đề, hàm ý. Ví dụ:

(1) Cái khó ncái khôn.

(2) Cái khó cái khôn.

Đúng như Chu Xuân Diên đã từng nói: “Nói đến tục ngữ là người ta thường nghĩ đến tính hàm súc của nó. Với tính chất ấy, tư tưởng của tục ngữ dường như bị nén chặt trong một hình thức câu hết sức ngắn gọn. Khi được vận dụng... tư tưởng của tục ngữ thường đòi hỏi được mở tung ra. Do đó có nhiều trường hợp, cấu trúc hình thức dưới dạng đã có sẵn của nó cũng thường bị phá vỡ”. [2]

2. Những quan điểm về nghĩa của tục ngữ

2.1 Bàn về nghĩa của tục ngữ, xuất phát từ việc nhìn nhận tục ngữ từ những bình diện ngôn ngữ khác nhau, các nhà nghiên cứu cũng đưa ra những nhận định và tiêu chí phân loại nghĩa tục ngữ theo quan điểm của riêng mình. Song tựu trung lại, dẫu rằng còn có những điểm nào đó chưa thật đồng nhất nhưng đa số đều thống nhất về tính hai tầng nghĩa của tục ngữ. Theo họ, các câu tục ngữ phần lớn mang hai tầng nghĩa: nghĩa đen và nghĩa bóng, nghĩa bóng cũng chính là nghĩa khái quát, nghĩa biểu trưng của tục ngữ.

Trên thực tế , có những câu tục ngữ chỉ thuần tuý mang một nghĩa đen (nghĩa hiển ngôn) nhưng số lượng những câu này không nhiều, chủ yếu nội dung thường là đục kết những kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp như:

-                     Nhất nước nhì phân tam cần tứ giống

-                     Một nong tằm là năm nong kén.

Cũng có thể đây là những câu ghi lại những đặc điểm nổi trội của một địa phương, hay những nhân vật có trong lịch sử:

-                     Dưa La, cà Láng, nem Báng, tương Bần, nước mắm Vạn Vân, cá rô Đầm Sét.

-                     Gạo Cần Đước, nước Đồng Nai.

Đó cũng có thể là những nhận thức về quy luật thiên nhiên:

-                     Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng bay vừa thì râm.

-                     Ráng vàng thì nắng, ráng đỏ thì mưa.

-                     Trong tục ngữ có những câu chỉ được hiểu theo nghĩa bóng, chẳng hạn:

-                     Nồi da nấu thịt.

-                     Đời cha ăn mặn, đời con khát nước

2.2 Trần mạnh Thường trong ‘Tục ngữ ca dao Việt Nam chọn lọc” cũng khẳng định: “Về hình thức, tục ngữ thường dùng hình ảnh, sự việc, hiện tượng cụ thể có thực trong đời sống xã hội và thiên nhiên để khái quát thành ý niệm trừu tượng. Nói khác đi, tục ngữ thường dùng cái riêng lẻ, cá biệt để nói lên cái phổ biến. Do đó mỗi câu tục ngữ cũng bao hàm hai nghĩa: nghĩa đen và nghĩa bóng. Cái cụ thể riêng lẻ sẽ tạo thành nghĩa đen, cái trừu tượng, phổ biến tạo thành nghĩa bóng.” [7]

2.3 Cùng quan điểm với Trần Mạnh Thường là Hoàng Tiến Tựu và Bùi Mạnh Nhị, trong đó các ông còn nhấn mạnh đến tính đa nghĩa của tục ngữ. Trong cuốn “Văn học dân gian” Hoàng Tiến Tựu viết: “Có những câu tục ngữ chỉ có một nghĩa,... nhưng bộ phận tục ngữ đa nghĩa chiếm tỉ lệ khá lớn, chất lượng khá cao và là bộ phận tiêu biểu nhất của thể loại này.” [8] Theo ông, có loại tục ngữ được dùng với cả hai nghĩa song song (nghĩa đen – nghĩa trực tiếp và nghĩa bóng – nghĩa gián tiếp). Ví dụ các câu “Rút dây động rừng”, “Tức nước vỡ bờ”, “Quá mù ra mưa”... có thể lúc đầu chỉ mang nghĩa đen, nhưng về sau lại chủ yếu được dùng với nghĩa bóng. Chia sẻ với quan điểm của Hoàng Tiến Tựu, Bùi Mạnh Nhị đưa ra ý kiến của mình: “Nghĩa bóng đã tạo cho tục ngữ khả năng vận dụng năng động vào các trường hợp, và cứ mỗi lần được sử dụng ở những văn cảnh khác nhau thì nội dung, ý nghĩa, kinh nghiệm, những lớp nghĩa nằm bên trong và bên ngoài từ ngữ của nó lại giàu thêm... Một câu tục ngữ có thể ứng dụng trong hàng ngàn trường hợp cụ thể khác nhau. Quá trình vận dụng tục ngữ là quá trình tạo nghĩa không ngừng” [6]. Để chứng minh cho nhận định của mình, tác giả còn đưa ra ví dụ cụ thể: Câu tục ngữ “ăn quả nhớ kẻ trồng cây” có thể sử dụng trong nhiều hoàn cảnh:

(1) Dân gian dùng để nhắc nhở mọi người ghi nhớ công sinh thành dưỡng dục của ông bà cha mẹ.

(2) Bày tỏ tình cảm của trò đối với thầy.

(3) Lòng biết ơn đối với những anh hùng liệt sĩ đã hy sinh.

2.4 Từ góc độ nghĩa học, Hoàng Văn hành [4] nhận định trong mỗi câu tục ngữ không chỉ có cấu trúc ngữ pháp, mà còn có cấu trúc ngữ nghĩa. Cấu trúc này bao gồm cả những yếu tố thuộc về nội dung miêu tả hiện thực (chức năng định danh) cũng như dụng ý thông báo (chức năng thông tin). Theo tác giả, cấu trúc ngữ nghĩa của tục ngữ giống với cấu trúc ngữ nghĩa của mọi câu nói thông thường vì với nghĩa đen nó cũng biêu thị một cảnh huống (các sự vật hay hiện tượng trong những mối qun hệ với nhau), sự khác nhau giữa chúng là nghĩa đen của tục ngữ thường chỉ dừng lại ở sự đúc kết kinh nghiệm trong lĩnh vực sản xuất, thiên văn... kiểu như “Nắng tốt dưa, mưa tốt lúa”, “Mưa đằng đông vừa trông vừa chạy”, v.v... Nhưng ngữ nghĩa tục ngữ sẽ được chuyển hoá trong những câu tục ngữ có khả năng ẩn dụ. Ví dụ “Nước mưa là cưa trời” miêu tả một sự kiện, một hoàn cảnh thực tế, trong đó cưa trời thể hiện sự bào mòn ghê gớm của nước mưa, đó chính là qui luật cụ thể của tạo hoá đã được điển hình hoá. Ngữ nghĩa những câu tục ngữ thuộc loại này đã không chỉ dừng lại ở tầng nghĩa cơ sở (tầng nghĩa đen).

2.5 Không đồng ý với quan điểm tục ngữ nhiều nghĩa hoặc đa nghĩa như hầu hết các nhà nghiên cứu tục ngữ nêu trên, Nguyễn Văn Đức [3] trong một số bài viết đăng trong Tạp chí Văn hoá dân gian năm 2000, 2002, 2003 đã kiên trì quan điểm của mình là nên coi tục ngữ chỉ có một nghĩa (nghĩa gắn liền với môi trường ứng dụng). Tiếp cận tục ngữ từ bình diện ngữ dụng học, tác giả cho rằng tục ngữ là một hiện tượng đặc biệt xét từ tính ứng dụng. Qua phân tích nghiên cứu của một số học giả, ông cho rằng: “Không nên nói tục ngữ có nhiều nghĩa, lại càng không nên nói tục ngữ đa nghĩa...Tục ngữ trên văn bản có từ một đến hai nghĩa, nhưng xét trong môi trường ứng dụng, tức là trong môi trường lưu truyền và tồn tại đích thực thì với mỗi lần phát ngôn chỉ có một nghĩa (có thể là nghĩa đen hay nghĩa bóng) - tức là nghĩa đang được ứng dụng theo mục đích phát ngôn”.

2.6 Tiếp cận tục ngữ từ góc độ lôgich, nhiều câu tục ngữ được Nguyễn Đức Dân [1] giải mã theo quan hệ lôgich tín hiệu – phạm trù lôgich ý nghĩa. Giải mã nghĩa tục ngữ theo kiểu này tương đối chặt chẽ và chuẩn xác, nó giúp chúng ta hiểu rằng một số câu tục ngữ tuy dùng những phương thức biểu đạt ngôn ngữ khác nhau nhưng lại có cấu trúc lôgich như nhau. Ví dụ:

(1) Hàng săng chết bó chiếu. -> Thợ làm áo quan, không có áo quan

(2) Thợ rèn không dao ăn trầu, -> Thợ làm dao, không có dao

Nếu gọi a là sản phẩm của nghề A thì từ hai câu tục ngữ trên ta có thể khái quát như sau: Người làm nghề A không có sản phẩm a.

Vậy khái quát đó chính là cấu trúc lôgich hay là bất biến ngữ nghĩa của hai câu tục ngữ (1) và (2). Đặc trưng của mối quan hệ giữa các quan hệ và thuộc tính của chúng ta đã tạo ra nghĩa cơ bản của tục ngữ. Thực tế cho thấy một số câu tục ngữ là những biến thể ngôn ngữ của một bất biến ngữ nghĩa, bất biến ngữ nghĩa chính là nghĩa khái quát hay nghĩa biểu trưng của tục ngữ.

3. Nghĩa biểu trưng của tục ngữ

3.1 Trong cuộc sống, người ta thường quy ước dùng một sự vật nào đó để nói lên một điều gì khác. Cách dùng như thế gọi là biểu trưng.

Đại bộ phận tục ngữ đều có nghĩa bóng, nghĩa bóng của tục ngữ được hình thành theo phương pháp biểu trưng và làm nên nghĩa của tục ngữ.

Chúng ta thử xét các câu tục ngữ:

(1) Lạt mềm buộc chặt

(2) Không có trâu bắt chó đi cày.

- “Lạt mềm buộc chặt” nghĩa đen trỏ một kinh nghiệm thực tiễn trong dân gian, dùng lạt mềm buộc đồ vật thì chặt, dùng lạt cứng thì không chặt và dễ đứt. Từ kinh nghiệm cụ thể được nâng lên mức tư duy trừu tượng, “Lạt mềm buộc chặt” được chuyển sang nghĩa bóng nói về tác dụng của những hành vi ứng xử khôn khéo trong xã hội, hành vi mềm mỏng sẽ dễ được việc.

Lạt mềm                  ->   buộc chặt

ứng xử mềm mỏng ->    thu phục được người

- “Không trâu bắt chó đi cày” nghĩa đen trỏ một thực tế không thể thực hiện được, từ thực tế dường như vô lí đó dẫn đến nghĩa biểu trưng hàm chứa trong câu là “khi không có cái tốt thì phải thay thế bằng cái kém hơn”, cùng nghĩa biểu trưng đó là các câu “Không có chó bắt mèo ăn cứt”. “Không có ngựa thì cưỡi lừa”.

3.2 Sự hình thành nghĩa biểu trưng của tục ngữ

Chúng ta có thể thấy đại bộ phận nghĩa bóng của tục ngữ được hình thành theo qui luật biện chứng của nhận thức “Từ trực quan sinh động   -> tư duy trừu tượng   -> thực tiễn”.

Nghĩa biểu trưng của tục ngữ được hình thành từ cách dùng hình ảnh cụ thể để phản ánh cái khái quát, qui luật. Hiểu được nghĩa biểu trưng chúng ta sẽ thuận lợi hơn khi lí giải nghĩa của tục ngữ tương tự, dù đó là những tục ngữ của dân tộc khác mà ta mới gặp lần đầu.

Xét các câu tục ngữ sau:

(1) Vắng chúa nhà, gà vọc niêu tôm. (Tục ngữ Việt Nam )

(2) Sơn trung vô lão hổ, hầu tử xưng bá vương. (Tục ngữ Hán)

(Trong núi vắng hổ, khỉ xưng vua)

(3) Mèo đi rồi, chuột nhảy múa. (Tục ngữ Pháp)

Cả ba câu trên tuy dùng những hình ảnh cụ thể khác nhau (“chúa nhà, hổ, mèo” biểu trưng cho tầng có quyền hành, cấp trên; “gà, khỉ, chuột” biểu trưng cho tầng lớp dưới, cấp dưới) nhưng đều pản ánh một hiện thực mang tính quy luật: Khi vắng cấp trên thì cấp dưới có thể làm mọi chuyện. Dựa vào phương pháp biểu trưng chúng ta có thể hiểu được ba câu tục ngữ trên là đồng nghĩa.

Tìm hiểu, nghiên cứu tục ngữ Việt Nam và Hán, chúng tôi nhận thấy chính chất liệu, hình ảnh biểu trưng trong tục ngữ cũng mang đậm tính dân tộc. Nước Việt Nam truyền thống là một nước nông nghiệp, văn hoá lúa nước gắn liển với đời sống sản xuất nông nghiệp của nhà nông. Chúng ta có thể nhận thấy rõ đặc điểm này qua nhiều câu tục ngữ phản ánh cuộc sống nông dân với những kinh nghiệm làm nông dồi dào, phong phú: “Con trâu là đầu cơ nghiệp”, “Con trâu đi trước cái cày theo sau”. Những hình ảnh này đã ăn sâu trong tiềm thức của người Việt từ bao đời nay. Qua khảo sát sự xuất hiện của các loài động vật trong tục ngữ Việt, hình ảnh con trâu có tần số xuất hiện cao nhất (trên 30 lần). Con trâu trong tục ngữ Việt tượng trưng cho người nông dân Việt Namnói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung với sự khoẻ mạnh và cả những vất vả, khó nhọc. Con trâu là trung tâm cuộc sống của người nông dân.

Ví dụ:

-                     Anh có sừng trâu bạc, tôi có giác trâu đen

-                     Có ăn có chọi mới gọi là trâu.

-                     Lạc đàng nắm đuôi chó, lạc ngõ nắm đuôi trâu.

-                     Muốn giàu nuôi trâu cái, muốn lụn bại nuôi bồ câu.

-                     Ruộng sâu trâu nái không bằng con gái đầu lòng

-                     Trai mười bảy bẻ gãy sừng trâu.

-                     Trâu chậm uống nước dơ, trâu ngơ ăn cỏ héo.

-                     Yếu trâu bằng khoẻ bò.

“Có thực mới vực được đạo”, nắm vững qui luật “Vật chất quyết định tinh thần”, một điều thú vị là trong nhiều câu tục ngữ dân Việt ta đã sử dụng động từ “ăn” biểu trưng cho nhiều qui luật đối nhân xử thế hoặc bản chất hiện tượng:

-                     ăn trông nồi, ngồi trông hướng.

-                     Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm.

-                     Thợ may ăn giẻ, thợ vẽ ăn hồ.

-                     ăn quả nhớ kẻ trồng cây.

-                     ăn cây nào rào cây nấy

Nói chung các hình ảnh cụ thể được dùng làm biểu trưng trong tục ngữ đều là những sự vật, hình ảnh gần gũi quen thuộc với quần chúng. Đó là cây, là hoa, là những động vật v.v. gắn liền với cuộc sống hàng ngày của nhân dân lao động. Chúng đã được hoá thân một cách sinh động vào trong tục ngữ. Bằng phương pháp biểu trưng như vậy, những chân lí, đạo lí và những kinh nghiệm truyền thống của dân tộc đã được người dân lĩnh hội, thấm nhuần sâu sắc và cứ như vậy chúng đã đi vào cuộc sống của dân tộc một cách hết sức dung dị, đời thường.

Tài liệu tham khảo

1. Nguyễn Đức Dân – Ngữ nghĩa thành ngữ và tục ngữ, sự vận dụng, Tạp chí Ngôn ngữ số 3-1986.

2. Chu Xuân Diên – Lương Văn Đang, Phương Chi – Tục ngữ Việt Nam, NXB KHXH 1997.

3. Nguyễn Văn Đức – Tạp chí văn hoá dân gian, số 4 -2000, 3-2002, 5-2003.

4. Hoàng Văn Hành – Tục ngữ trong cách nhìn của ngữ nghĩa học, Tạp chí Ngôn ngữ, số 4-1980.

5. Nguyễn Thái Hoà - Tục ngữ Việt Nam – Cúc trúc & thi pháp, Nxb KHXH 1997.

6. Bùi Mạnh Nhị (chủ biên) – Văn học dân gian – những công trình nghiên cứu, Nxb GD 1999.

7. Trần Mạnh Thường – Tục ngữ ca dao Việt Nam chọn lọc, Nxb Văn hoá dân tộc 1996.

8. Hoàng Tiến Tựu – Văn học dân gian Việt Nam , Giáo trình đào tạo giáo viên THCS hệ CĐSP, Nxb GD 1998

Nguồn : TC Ngôn ngữ &Đời sống

Xem Thêm

Văn hóa đọc là giá trị nền tảng góp phần phát triển con người và xã hội trong kỷ nguyên mới
Trong thời đại của cách mạng công nghiệp 4.0 và toàn cầu hóa, để đất nước vươn mình sánh vai cùng các cường quốc năm châu, không thể thiếu ánh sáng của tri thức, mà trong đó sách đóng vai trò trung tâm. Sách và Văn hoá đọc chính là nền tảng để xây dựng một xã hội học tập, sáng tạo và phát triển bền vững.
Giải pháp nào để phát triển các mô hình NN, thủy sản hiệu quả cao theo hướng an toàn, bền vững tại các tỉnh ĐBSCL?
Đó là những nội dung được các đại biểu đưa ra tại hội thảo khoa học “Giải pháp phát triển các mô hình nông nghiệp, thủy sản hiệu quả cao theo hướng an toàn, bền vững tại các tỉnh ĐBSCL” do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (LHHVN) phối hợp với LHH tinh Kiên Giang và Viện Nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao công nghệ (Viện IHT) tổ chức ngày 12/4 tại TP Rạch Giá.
Sơn La: Tìm giải pháp quản lý, bảo vệ và sử dụng nguồn nước
Ngày 2/4, Liên hiệp hội tỉnh phối hợp cùng Sở Nông nghiệp và Môi trường tổ chức hội thảo "Thực trạng và giải pháp quản lý, bảo vệ và sử dụng nguồn nước". Sự kiện thu hút sự tham gia của hơn 40 đại biểu đến từ các sở, ban, ngành, doanh nghiệp, trường đại học, cao đẳng và cơ quan truyền thông địa phương.
Huế: Hội nghị về Nội tiết và Đái tháo đường năm 2025
Ngày 29/3, Hội Nội tiết và Đái tháo đường thành phố Huế phối hợp với Hội Nội tiết và Đái tháo đường Việt Nam đã tổ chức hội nghị khoa học Cố đô mở rộng lần thứ 8 về bệnh nội tiết, đái tháo đường, rối loạn chuyển hóa năm 2025.

Tin mới

Thúc đẩy hoạt động đăng bạ kỹ sư chuyên nghiệp ASEAN tại Việt Nam
Sáng ngày 29/4/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật thành phố Hải Phòng tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Thúc đẩy công tác đăng bạ kỹ sư chuyên nghiệp tại Việt Nam”. Hội thảo do PGS.TS Phạm Ngọc Linh, Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam và TS. Bùi Thanh Tùng, Chủ tịch Liên hiệp Hội thành phố Hải Phòng đồng chủ trì.
Hà Giang: Góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung 06 Luật
Ngày 29/4, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hà Giang (Liên hiệp hội) đã tổ chức hội thảo tư vấn, phản biện (TVPB), góp ý đối với dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính, Luật Tư pháp người chưa thành niên, Luật Phá sản, Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quy hoạch.
Phát huy sức mạnh trí tuệ và tâm huyết của trí thức KHCN trong thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị
Nhằm triển khai hiệu quả Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam - LHHVN) xác định phát huy trí tuệ, trách nhiệm và tâm huyết của đội ngũ trí thức là nhiệm vụ trung tâm, tạo động lực để khoa học công nghệ và chuyển đổi số trở thành lực lượng sản xuất chủ đạo thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
An Giang: 30 trí thức KH&CN tiêu biểu được tôn vinh 2025
Chiều ngày 28/4, tại trụ sở Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh An Giang, Hội đồng xét chọn trí thức Khoa học và Công nghệ (KH&CN) tiêu biểu tỉnh năm 2025 đã tổ chức phiên họp chính thức. Đây là lần thứ hai An Giang triển khai hoạt động xét chọn và tôn vinh trí thức KH&CN tiêu biểu.
Quảng Ngãi: Cuộc thi Sáng tạo Robot Quảng Ngãi lần thứ III đã tìm ra nhà vô địch
Sau 2 ngày tranh tài sôi nổi, chiều ngày 27/5, tại Nhà thi đấu IEC Quảng Ngãi, Ban tổ chức Cuộc thi Sáng tạo Robot Quảng Ngãi lần thứ III, năm 2025 đã tổ chức bế mạc, trao 16 giải thưởng cho các đội đoạt giải. Đội CFF đến từ trường THPT Lê Trung Đình đã xuất sắc giành giải Nhất chung cuộc.
Khởi động Chương trình Biểu dương TOP Công nghiệp 4.0 năm 2025
Chương trình Biểu dương TOP Công nghiệp 4.0 nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp ứng dụng, chuyển giao, nghiên cứu và phát triển sản xuất các sản phẩm, nền tảng, giải pháp dựa trên công nghệ số để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, hiện thực hóa các cơ hội, tiềm năng mà chuyển đổi số mang lại khi đưa được công nghệ số vào mọi lĩnh vực đời sống xã hội, đến từng người dân.
Khai mạc Cuộc thi Sáng tạo Robot Quảng Ngãi lần thứ III
Ngày 26/4, tại Quảng Ngãi, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Quảng Ngãi phối hợp với Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh, Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Quảng Ngãi và Tỉnh đoàn tỉnh Quảng Ngãi tổ chức khai mạc và vòng loại Cuộc thi Sáng tạo Robot Quảng Ngãi lần thứ III, năm 2025.
Văn hóa đọc là giá trị nền tảng góp phần phát triển con người và xã hội trong kỷ nguyên mới
Trong thời đại của cách mạng công nghiệp 4.0 và toàn cầu hóa, để đất nước vươn mình sánh vai cùng các cường quốc năm châu, không thể thiếu ánh sáng của tri thức, mà trong đó sách đóng vai trò trung tâm. Sách và Văn hoá đọc chính là nền tảng để xây dựng một xã hội học tập, sáng tạo và phát triển bền vững.