An ninh lương thực Việt Nam thực trạng và giải pháp
Theo kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản thời điểm 01-7-2006, khu vực nông thôn có 13,77 triệu hộ, tăng 0,7 triệu hộ (+5,4%) so với năm 2001. Hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản có 9,78 triệu hộ, chiếm tỷ trọng 71% tổng số hộ nông thôn. Theo số liệu tổng điều tra dân số 01-10-2009, dân số cả nước là 85,79 triệu người, tốc độ tăng dân số bình quân 1 năm là 1,2%, dân số nông thôn có 60,56 triệu người, chiếm 70% tổng dân số cả nước. Dân số nông thôn đông lại không ngừng tăng lên về số tuyệt đối nên nhu cầu lương thực cho dân cư nông thôn cũng tăng nhanh, trong khi nguồn đất sản xuất lương thực lại không ngừng giảm sút, nhất là đất lúa. Vì vậy, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia là vấn đề sống còn của đất nước, là yếu tố quyết định qui mô và tốc độ tăng trưởng, phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo cả nước. Thực tế của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính năm 2008 - 2010 vừa qua và tình hình giá cả lương thực tăng nhanh trong năm 2010 và 4 tháng đầu năm 2011 cho thấy bài học quý giá là phải coi trọng nông nghiệp, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. Đó cũng là vấn đề đầu tiên, có vị trí quyết định việc thực hiện Nghị quyết số 11 (2011) của Chính phủ về kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an sinh xã hội trong năm 2011.
Để tìm giải pháp cho vấn đề an ninh lương thực nước ta trong giai đoạn 2011 - 2015, trước hết cần đánh giá toàn diện, đúng mức thực trạng và những bài học rút ra về an ninh lương thực 5 năm 2006 - 2010. Thực trạng đó phải được đánh giá trên ba mặt: sản xuất lương thực, quy mô dân số và tình hình xuất khẩu gạo...
1. Thực trạng thời kỳ 2006 - 2010
1. 1. Những kết quả và khởi sắc đáng ghi nhận
Thời kỳ 2006 - 2010, dưới tác động của cơ chế, chính sách đổi mới và hội nhập kinh tế thế giới theo cam kết WTO, an ninh lương thực quốc gia đã có bước chuyển biến tích cực.
Về sản xuất lương thực
Dù gặp nhiều khó khăn do tác động tiêu cực của thị trường thế giới về giá cả phân bón, thuốc trừ sâu và thiên tai trong nước diễn biến bất lợi nhưng sản xuất lương thực cả nước vẫn phát triển theo chiều hướng tăng dần cả về sản lượng và chất lượng. Sản lượng lương thực từ 39,7 triệu tấn năm 2006 tăng lên 44,6 triệu tấn năm 2010, bình quân mỗi năm tăng 900.000 tấn. Như vậy, nước ta đã hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch sản xuất lương thực năm 2010 trước 2 năm theo tinh thần Nghị quyết Đại hội IX của Đảng và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2006 - 2010. Nét mới trong sản xuất lương thực trong hơn 5 năm qua là sản lượng tăng nhanh và ổn định, năm sau cao hơn năm trước, dù thiên tai năm nào cũng xảy ra trên diện rộng.
Trong lương thực, sản xuất lúa tăng nhanh và ổn định cả về diện tích và năng suất. Nếu năm 2006 cả nước mới gieo cấy 7,3 triệu ha thì năm 2010 đã tăng lên trên 7,5 triệu ha do tăng vụ. Từ năm 2006, thực hiện chủ trương chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo hướng tăng hiệu quả kinh tế trên 1 đơn vị diện tích, nên một bộ phận diện tích gieo cấy lúa vụ mùa không ổn định, năng suất thấp,... sang lúa đông xuân và hè thu năng suất cao hơn. Diện tích lúa đông xuân từ 2,99 triệu ha năm 2006 lên 3,1 triệu ha năm 2010, diện tích lúa hè thu từ 2,31 triệu ha lên trên 2,43 triệu ha, trong đó do tăng diện tích lúa vụ 3 ở các tỉnh phía Nam, nhất là vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là điểm mới do giá lúa tăng cao. Diện tích lúa mùa có năng suất thấp, giảm từ 2,1 triệu ha/năm xuống 2,01 triệu ha. Sự chuyển dịch này đã tạo điều kiện để thâm canh tăng năng suất lúa và đa dạng hóa sản phẩm lúa gạo, tăng chất lượng lúa gạo từng vụ và cả năm.
Năng suất lúa từ 48,9 tạ/ha năm 2006 lên 53,2 tạ/ha năm 2010, bình quân mỗi năm tăng trên 1 tạ/ha, là mức độ tăng năng suất lúa cao so với các thời kỳ trước đó. Kết hợp cả hai yếu tố tăng diện tích và tăng năng suất đã làm tăng sản lượng lúa cả nước với tốc độ khá nhanh. Năm 2006 là 35,8 triệu tấn, năm 2007 ]à 35,9 triệu tấn, năm 2008 là 38,7 triệu tấn, năm 2009 là 38,9 triệu tấn và năm 2010 là 40 triệu tấn. Tuy nhiên, tăng năng suất lúa là yếu tố quan trọng làm tăng sản lượng lúa của Việt Nam với mức bình quân mỗi năm tăng thêm 1,0 triệu tấn, năm sau cao hơn năm trước là xu thế hiếm thấy trong lịch sử sản xuất lúa nước ta và thế giới. Cơ cấu sản lượng lúa cũng đã có sự thay đổi quan trọng, tỷ trọng sản lượng lúa đông xuân có chất lượng cao năm 2010 đạt 19,2 triệu tấn, chiếm tỷ trọng 48,2%, so với 17,3 triệu tấn năm 2006, chiếm 48,1% năm 2005. Sản lượng lúa mùa năm 2010 còn 9,2 triệu tấn, chiếm 23%, sản lượng lúa hè thu 11,6 triệu tấn, chiếm 28,8,%. Tỷ trọng lúa có chất lượng cao phục vụ xuất khẩu tăng nhanh trong các năm 2008 - 2010 đã góp phần quan trọng tăng chất lượng gạo xuất khẩu Việt Nam trên thị trường thế giới.
Cùng với lúa, sản xuất ngô phát triển khá ổn định, tăng trưởng nhanh. Năm 2006, diện tích ngô cả nước mới đạt 1.033.000 ha, năng suất 37,3 tạ/ha và sản lượng 3,85 triệu tấn và năm 2010 đạt 1.131.000 ha, 41 tạ/ha và 4,6 triệu tấn. Ngô là cây màu lương thực chủ yếu hiện nay và trong tương lai nhằm bổ sung nguồn lương thực cho dân cư miền núi và nguyên liệu cho công nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi. Sản xuất ngô tăng nhanh do tăng diện tích ngô vụ đông ở các tỉnh phía bắc, do chuyển một số diện tích thiếu nước sang trồng ngô ở những vùng bị khô hạn tại Tây Nguyên và Đông Nam bộ. Năng suất ngô tăng nhanh do bà con nông dân mở rộng diện tích trồng ngô lai đồng thời áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới trong thâm canh tăng năng suất ngô.
Một số nét mới trong sản xuất lương thực 5 năm qua:
Đã hoàn thiện các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, qui mô lớn gắn với thị trường xuất khẩu. Đó là vùng lúa hàng hóa ĐBSCL, đồng bằng sông Hồng (ĐBSH), vùng ngô Đông Nam bộ, Tây Nguyên và các tỉnh miền núi phía Bắc, ngô vụ đông vùng ĐBSH, Bắc Trung bộ. Các vùng sản xuất hàng hóa lớn tập trung đó đã cung cấp lúa gạo hàng hóa và xuất khẩu cho cả nước trong những năm qua và là dấu hiệu của nền nông nghiệp hàng hóa lớn đã và đang hình thành, khác hẳn thời kỳ trước.
Áp dụng rộng rãi các tiến bộ khoa học kỹ thuật phục vụ sản xuất lương thực hàng hóa gắn với xuất khẩu. Công nghệ sinh học phát triển, nhất là nhiều giống lúa lai, ngô lai đã đưa vào sản xuất, công nghệ tưới tiêu, làm đất, phân bón, bảo quản, sau thu hoạch... ngày càng tiến bộ và đã góp phần tích cực vào thâm canh tăng năng suất cây lương thực theo yêu cầu thị trường. Năng suất lúa của Việt Nam năm 2009 - 2010 đã gấp 2 lần của Thái Lan, Philippines và vượt cả Indonesia nhờ ứng dụng các công nghệ sinh học và phân bón. Tỷ lệ đất lúa được tưới tiêu của Việt Nam cao hơn nhiều so với Thái Lan và Philippines.
Về giảm tốc độ tăng tự nhiên dân số
Theo kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở 01-4-2009, thục hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình 5 năm 2006 - 2010, tỷ lệ tăng tự nhiên của dân số cả nước đã giảm từ 1,3% xuống 1,15% trong thời gian tương ứng. Đến năm 2009 và 2010, tốc độ tăng tự nhiên của dân số cả nước chỉ còn dưới 1,2%, một số vùng chỉ còn dưới 1,15%/năm như đồng bằng sông Hồng, duyên hải miền Trung, Đông Nam bộ. Tuy nhiên, một số vùng khác vẫn còn cao trên 1,15%/năm như ĐBSCL, Tây Nguyên, Tây Bắc. Tình trạng sinh con thứ 3 những năm 2008 - 2010 đã giảm ở nhiều vùng và địa phương, nhất là khu vực thành thị và cán bộ công nhân viên chức nhà nước. Cùng với giảm tỷ lệ tăng tự nhiên của dân số, cơ cấu tiêu dùng lương thực trong dân cư cũng đã có chuyển biến theo hướng giảm tỷ lệ lương thực trong cơ cấu bữa ăn hộ gia đình, tuy nhiên mức độ giảm chưa nhiều. Do tác động của hai yếu tố trên nên an ninh lương thực quốc gia 5 năm 2006 - 2010 ổn định. Xu hướng sản lượng lương thực tăng nhanh hơn tốc độ tăng tự nhiên của dân số thể hiện rõ nét, lương thực bình quân nhân khẩu năm sau cao hơn năm trước (bảng l).
Bảng 1: Tình hình biến động dân số và sản lượng lương thực Việt Nam 5 năm 2006 - 2010
Đơn vị tính | 2006 | 2007 | 2008 | 2009 | 2010 | 2010/2006 (%) | |
Dân số | Triệu người | 83,3 | 84,2 | 85,1 | 86,0 | 87,1 | 104,6 |
Sản lượng lương thực | Triệu tấn | 39,7 | 40,2 | 43,30 | 43,32 | 44,6 | 112,4 |
Sản lượng lương thực bình quân nhân khẩu | Kg/người | 476,6 | 477,9 | 508,7 | 503,7 | 512 | 107,3 |
Nguồn: Niên giám Thống kê năm 2009, Báo cáo Kinh tế - Xã hội, Tổng cục Thống kê, 2010.
Trong 5 năm 2006 - 2010, bình quân mỗi năm, sản lượng lương thực tăng 3%, cao hơn tốc độ tăng dân số (1,15%) nên lương thực bình quân nhân khẩu tăng từ 476,6 kg năm 2006 lên 512 kg năm 2010. Năm 2010 so với năm 2006, sản lượng lương thực tăng thêm 3,6 triệu tấn, trong khi dân số tăng thêm 3,8 triệu người nên sản lượng lương thực bình quân nhân khẩu có xu hướng tăng dần và từ năm 2008, 2009 và 2010 đều đạt trên 500kg và đánh dấu bước chuyển mới rất quan trọng trong giải quyết tốt an ninh lương thực của nước ta (theo tính toán của các chuyên gia kinh tế và dinh dưỡng, trong điều kiện Việt Nam, 300 kg lương thực đầu người 1 năm là đủ đảm bảo an đàn lương thực ở mức tối thiểu). Có được kết quả đó, một mặt do tác động tích cực của chính sách đổi mới cơ chế quản lý trong nông nghiệp và đầu tư thâm canh của các hộ nông dân làm tăng nhanh sản lượng lúa, nhưng mặt khác do giảm tỷ lệ tăng tự nhiên của dân số.
Sản phẩm lương thực 5 năm qua còn đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến nông sản trong nước. Sản lượng ngô tăng nhanh đã góp phần giảm lương ngô nhập khẩu để chế biến thức ăn chăn nuôi và cung cấp cho nhu cầu tiêu dùng của đồng bào vùng cao.
Về xuất khẩu gạo
Từ năm 2006 đến năm 2010, lượng gạo xuất khẩu Việt Nam liên tục tăng nhanh và đạt mức cao. Năm 2006 đạt 4,64 triệu tấn, năm 2007 đạt 4,58 triệu tấn, năm 2008 đạt 4,74 triệu tấn, năm 2009 dạt 5,95 triệu tấn và năm 2010 đạt 6,8 triệu tấn. Tính chung 5 năm 2006 - 2010 Việt Nam đã xuất khẩu 26,71 triệu tấn gạo, bình quân đạt 5,34 triệu tấn/năm. Không chỉ tăng sản lượng mà còn tăng cả chất lượng nên giá gạo xuất khẩu Việt Nam cũng tăng nhanh. Năm 2006 đạt 274,9 USD/tấn, năm 2009 đạt 466,8 USD/tấn và năm 2010 đạt 470 USD. Đến nay, Việt Nam vẫn giữ vũng vị trí thứ 2 thế giới về xuất khẩu gạo liên tục từ năm 2006 - 2010 dù không phải thời tiết năm nào cũng thuận lợi.
1. 2. Những hạn chế và bất cập
Bên cạnh những thành tựu và tiến bộ, an ninh lương thực Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế và bất cập, cả sản xuất lương thực, tốc độ tăng dân số và xuất khẩu gạo.
Về sản xuất tương thực
Phương thức sản xuất lương thực chung cả nước vẫn còn nhiều hạn chế và bất cập. Quy mô ruộng đất lúa bình quân đầu người quá ít lại giảm dần, đơn vị sản xuất lương thực chủ yếu là hộ gia đình nông dân, tính chất sản xuất lại phân tán, ruộng đất manh mún rất khó áp dụng máy móc nông nghiệp, trình độ cơ giới hóa sản xuất lương thực còn thấp, nhất là vùng núi, vùng sâu vẫn còn lạc hậu. Năng suất lúa, ngô tăng trưởng không đều và không vững. Phương thức sản xuất lấy mục tiêu tăng sản lượng, chưa quan tâm nhiều đến chất lượng lúa ngô vẫn còn phổ biến. Công nghệ sau thu hoạch, bảo quản và sơ chế, chế biến lương thực vẫn còn lạc hậu nhưng chậm cải tiến. Các hoạt động dịch vụ cung ứng vật tư, tưới tiêu, thu gom lương thực hàng hóa do hợp tác xã, tổ kinh tế hợp tác và các doanh nghiệp tư nhân, thương lái thực hiện. Trong khi đó, các chính sách và cơ chế quản lý các tổ chức dịch vụ lại chưa hoàn thiện, nên người nông dân vẫn chịu thiệt thòi nhiều mặt. Tình trạng ép cấp ép giá lúa, ngô, hàng hóa vẫn còn phổ biến.
Xu hướng độc canh lúa ở nhiều vùng và địa phương còn nặng nề, chuyển dịch cơ cấu sản xuất còn tự phát, manh mún, hiệu quả thấp. Vựa lúa đồng bằng sông Cửu Long chiếm hơn 50% sản lượng lúa cả nước và 90% sản lượng gạo xuất khẩu nhưng xu hướng độc canh lúa vẫn rất nặng nề. Biểu hiện cụ thể là những năm 2008 - 2011, do giá lúa tăng cao nên nông dân trong vùng đã mở rộng diện tích lúa thu đông (vụ 3) để tăng sản lượng. Việc mở rộng diện tích lúa vụ 3 ở vùng ĐBSCL tuy có lợi trước mắt nhưng về lâu dài còn tiềm ẩn nhiều yếu tố bất ổn như đất lúa bị khai thác quá mức, đất không được nghỉ, độ màu mỡ sẽ giảm, nhất là những năm không có lũ lớn (như năm 2010). Do làm 3 vụ lúa trong năm nên khả năng sâu bệnh lây lan từ vụ này sang vụ khác là rất lớn, trong khi đó giá cả phân bón, thuốc trừ sâu tăng cao, làm giảm hiệu quả cây lúa. Không chỉ ĐBSCL mà cả các tỉnh duyên hải Nam Trung bộ cũng đang có xu hướng tái sản xuất lúa vụ 3 để tăng sản lượng, mặc dù trước đây Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã có chủ trương không mở rộng diện tích lúa vụ 3. Trong khi đó diện tích đất canh tác lúa giảm nhanh do đô thị hóa và công nghiệp hóa. Do vậy, khả năng tăng diện tích gieo cấy lúa là rất hạn chế. Năng suất lúa các vụ ở hầu hết các vùng, các địa phương đã đến mức trần, kể cả đồng bằng sông Hồng và ĐBSCL nên khả năng tăng thêm là rất khó. Sản xuất ngô có nhiều tiềm năng nhưng tăng rất chậm, nhất là ngô vụ đông ở vùng đồng bằng sông Hồng. Nguyên nhân chủ yếu là do chi phí đầu vào tăng cao trong khi giá cả đầu ra không ổn định.
Về tốc độ tăng tự nhiên dân số
Tuy tốc độ tăng tự nhiên của dân số đã giảm nhưng nói chung vẫn còn cao và chưa ổn định. Bình quân mỗi năm, dân số tăng thêm trên 1,15 triệu người nên nhu cầu lương thực đảm bảo cho tiêu dùng của dân cư tiếp tục tăng nhanh. Lượng lương thực tiêu dùng trong bữa ăn của dân cư còn cao nhưng giảm chậm nhất là khu vực nông thôn: năm 2008 là 11,9 kg/người/tháng so với 12,4 kg năm 2006, trong đó dân cư nông thôn là 12,8 kg so với 13,3 kg. Tốc độ giảm tỷ lệ sinh không năm nào đạt kế hoạch đề ra nên sức ép về dân số vẫn cao. Dân số tăng không chỉ kéo theo tăng cầu lương thực mà còn tăng diện tích đất ở do san tách hộ ở nông thôn, làm giảm diện tích đất lúa.
Về xuất khẩu gạo, nhập khẩu lúa mì
Là nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 thế giới nhưng đến năm 2010 Việt Nam vẫn chưa có chiến lược xuất khẩu gạo. Xuất khẩu gạo, nhập khẩu lúa mì là yếu tố liên quan trực tiếp đến cân đối lương thực trong nước nhưng chưa có chiến lược, kế hoạch rõ ràng nên việc ký kết các hợp đồng xuất khẩu hàng năm còn mang tính tự phát, hiệu quả thấp. Dẫn chứng trong năm 2011, khi giá cả lương thực trong nước và thế giới tăng cao nhưng các hợp đồng xuất khẩu gạo của Việt Nam lại không tăng tương ứng, giá vẫn thấp. Theo báo cáo của thương vụ Việt Nam tại Philippines, ngày 24-03-2011, thông qua Hợp đồng Chính phủ, có 200.000 tấn được bán với giá 480 USD/tấn bao gồm cả phí vận chuyển (chỉ tăng 10 USD so năm 2010). Đây là giá quá rẻ theo nhận định của Cơ quan Lương thực quốc gia Philippines (NFA), vì nếu cộng các chi phí (theo họ tính) thì về tới cảng giá phải là 550 USD/tấn. Theo một số doanh nghiệp kinh doanh lúa gạo, trong số 1,5 triệu tấn gạo đã ký hợp đồng giao từ tháng 4 trở đi, có tới hơn nửa triệu tấn bán thương mại với giá 430 - 450 USD/tấn (loại 5%) tấn, nhiều trường hợp bán gạo 25% dưới mức 400 USD/tấn. So với giá nguyên liệu tại mạn tàu từ 9.600 - 9.700 đồng/kg, thì doanh nghiệp chịu lỗ mỗi tấn từ 20 - 50 USD. Còn với giá hiện tại, thì mỗi tấn xuất đi, doanh nghiệp mất lời khoảng 40 USD. Đó là điều bất hợp lý, dẫn đến hiệu quả thấp. Vấn đề nhập khẩu lúa im, bột mì, thức ăn gia súc cũng chưa được xác định trong chiến lược và kế hoạch hàng năm (năm 2009 nhập khẩu 345,3 triệu USD lúa mì, chưa tính bột mì và gần 1 tỷ USD thức ăn gia súc).
Nhu cầu lương thực, nhất là ngô cho chế biến thức ăn chăn nuôi cũng tăng nhanh trong khi sản lượng ngô sản xuất vẫn tăng chậm.
2. Giải pháp
Đảm bảo an ninh lương thực quốc gia trong bối cảnh nguy cơ thiếu lương thực thế giới và giá cả lương thực tăng cao hiện nay, cần có hệ thống các giải pháp tích cực, đồng bộ và có tính khả thi. Dưới đây là một số giải pháp chủ yếu liên quan đến ba yếu trố: sản xuất lương thực, quy mô dân số và xuất khẩu gạo của Việt Nam giai đoạn 2011 - 2015, tầm nhìn năm 2020.
- Chuyển nhanh phương thức sản xuất lương thực theo hướng bền vững. Theo hướng đó, từ nay đến năm 2015, cần ổn định diện tích canh tác lúa ở mức 4 triệu ha, gieo trồng 2 vụ ăn chắc trong năm, đồng thời mở rộng diện tích lúa vụ 3 ở ĐBSCL, duyên hải Nam Trung bộ một cách hợp lý trên cơ sở hoàn thiện quy trình kỹ thuật sản xuất lúa, phòng trừ sâu bệnh. Mở rộng diện tích vụ đông ở ĐBSH và các tỉnh phía Bắc lên 1 triệu ha. Phát triển và nâng cấp các công trình thủy lợi để nâng cao khả năng thâm canh tăng năng suất, chống đỡ với bão, lũ, hạn hán có hiệu quả, tiến tới thực hiện tưới tiêu chủ động cho toàn bộ diện tích gieo trồng lúa, ngô ở tất cả các vùng, các vụ. Áp dụng rộng rãi tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất, sơ chế, chế biến, bảo quản lương thực để giảm hao hụt trong và sau thu hoạch lúa, ngô nhất là các vùng trọng điểm.
- Đổi mới chính sách dân số theo hướng giảm dần tốc độ tăng tự nhiên của dân số, tiến tới mục tiêu ổn định dân số, nhất là khu vực nông thôn. Đầu tư thỏa đáng cho các chương trình xóa đói giảm nghèo, lao động việc làm ở nông thôn để tăng thu nhập và cải thiện đời sống, cải tiến bữa ăn của dân cư nông thôn theo hướng giảm dần lượng gạo, tăng thực phẩm khác để giảm cầu lương thực tiêu dùng cho bữa ăn.
- Xây dựng chiến lược xuất khẩu gạo và nhập khẩu lúa mì. An ninh lương thực quốc gia nhất thiết phải gắn với thị trường lương thực thế giới, nhất là thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập theo cam kết WTO. Vì vậy, định hướng chiến lược, xuất khẩu gạo của Việt Nam thời kỳ 2011 - 2020 cần nhằm mục tiêu tăng chất lượng gạo và hiệu quả thay vì tăng sản lượng như những năm qua. Theo hướng đó, những năm tới lượng gạo xuất khẩu hàng năm nên ổn định ở mức hợp lý (khoảng 6 triệu tấn) đồng thời tăng chất lượng gạo, giảm chi phí, để tăng giá gạo và tăng hiệu quả kinh tế xuất khẩu gạo. Mở rộng hình thức liên kết giữa Việt Nam với các nước xuất khẩu gạo để ổn định thị trường và giá cả lương thực trong mọi điều kiện thời tiết. Vấn đề nhập khẩu lương thực, chủ yếu là lúa mì, bột mì, thức ăn gia súc... cũng cần được nghiên cứu, hoàn thiện trong chiến lược đảm bảo an ninh lương thực quốc gia hiện nay.
* Tài liệu tham khảo:
1. Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI.
2. Kết quả Tổng đều tra Nông thôn, Nông nghiệp và Thủy sản năm 2006.
3. Kết quả Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009.
4. Nghị duyệt Trung ương 7 (khóa X) của Đảng về nông nghiệp, nông dân và nông thôn.
5. Nghị quyết của Quốc hội khóa XII về các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2010 và 2011.
6. Niên giám Thống kê các năm 2006 - 2009, Tổng cục Thống kê.
7. Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2010. Tổng cục Thống kê.
8. Trung tâm Thông tin thương mại, Bộ Công thương.
9. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020 và Kế hoạch 5 năm 2011 - 2015.
10. Nghị quyết 11/NQ-CP của Chính phủ ngày 24-2-2011.