“Hạc nội mây ngàn” hay “Hạc nội mây nhàn”
Hầu hết các bản Kiều Nôm và Quốc ngữ đều vết câu 2402 như trên, riêng cuốn Tư liệu Truyện Kiều bản Duy Minh Thị 1872 (Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội 2002) chép là: Biết đâu hạc nội mây nhànlà đâu.GS Nguyễn Tài Cẩn đã nhận xét bản DMT/ 1872 như sau: “Đây là một bản gốc rất cổ, chưa kinh qua những sự sửa chữa, nhuận sắc trong những đợt in ấn xảy ra trong suốt gần 170 năm về sau” (tr 29), và cuối cùng ông kết luận: “Chúng tôi xin được nhắc lại: Bản DMT/ 1872 đã trùng tu san lại cho chúng ta một bản Kiều thuộc các thế hệ rất cổ và rất hiếm” (tr 54). Ông cũng có lưu ý là trong bản Kiều này có thể có đến 400 trường hợp độc đáo cần phải cân nhắc kĩ và rất có thể trong số đó, sau này chúng ta sẽ phát hiện ra một tỉ lệ nào đó vốn bắt nguồn từ nguyên tác. Với sự gợi ý trên đây chúng tôi thấy thành ngữ Hạc nội mây nhàntrong câu thơ 2402 biết đâu lại là cách diễn đạt của tác giả của Truyện Kiều trong nguyên tác.
Trong trường hợp này Nguyễn Tài Cẩn cho rằng căn cứ mặt chữ phải đọc là Hạc nội mây nhàn, nhưng ông lại chứng minh âm được nghi bằng NG cũng có thể ghi bằng NH và kết luận Nhàn = Ngàn (xem mục ghi chú 770 tr 503 trong cuốn Tư liệu Truyện Kiều bản DMT/ 1872) và như vậy cuối cùng ông vẫn đọc là Hạc nội mây ngàn(chứ không phải nhàn).
Quả thật Hạc nội mây ngànrất quen thuộc và dễ chấp nhận đối với mọi người, còn Hạc nội mây nhànnghe qua có vẻ lạ tai, nhưng trên thực tế theo tra cứu và tìm hiểu của chúng tôi thì đây chính là điển tích và là câu thành ngữ của Trung Quốc có nguyên văn là Nhànvân dã hạcvà chắc Nguyễn Du đã tiếp thu và vận dụng nó theo dạng sơ khai như trong bản DMT/ 1872 và sau đó đã được chữa lại là Hạc nội mây ngànvà mọi người đều cảm nhận được ý nghĩa một cách đơn giản là “không biết được tung tích ở nơi nào, ví như loài hạc ở giữa đồng và đám mây ở trên ngàn, trên núi” mà không cần tìm đến nguồn gốc sâu xa của điển cố.
Câu thành ngữ Nhàn vân dã hạcđã được ghi nhận trong các sách tra cứu của Trung Quốc như Cổ Hán ngữ đại từ điển(Thượng Hải từ thư xuất bản xã 2002), Hán ngữ điển cố từ điển(Hán ngữ đại từ điển xuất bản xã 1998), Thành ngữ thục ngữ từ điển(Thương vụ ấn thư quán xuất bản 1992), Hán ngữ thành ngữ đại từ điển(Trung Hoa cục xuất bản phát hành 2002)…
Câu thành ngữ này đã được các sách trên đây giải thích đại ý là tự do thoải mái, không bị ràng buộc, câu thúc.Trong Đường thi cổ xuý có câu thơ của Lý Quần Ngọc tiễn Tần Luyện Sư như sau:
Nhàn vân bất hệ đông tây ảnh
Dã hạc ninh tri khứ trụ tâm
(Mây nhàn lơ lửng đông tây
Hạc đồng đã biết rằng bay hay đừng)
Câu thành ngữ cũng có những biến thể như Nhàn vân côhoặc Cô vân dã hạc.
Với những lí do đã trình bày trên đây, chúng tôi cho rằng chữ Nhàntrong câu thành ngữ Hạc nội mây nhàncó đủ cơ sở để tồn tại một cách độc lập về mặt xuất xứ cũng như cách đọc theo chính âm của nó, mà không cần phải chỉnh sửa để đọc ra Ngàn. Một điều dễ nhận thấy nữa là trong các câu Kiều có chữ Ngànđều viết một cách đơn giản chữ Ngạnâm Hán - Việt để đọc Nôm là Nhàn,mà không có chỗ nào viết chữ Nhànđể phải suy luận ra Ngàncả.
Bạc phau cầu giá đen rầm ngànmây (C 912)
Trông người đã khuất mấy ngàncây xanh (1522)
Trời đông vừa rạng ngàndâu (C 2033)
Mấy sông cũng lội mấy ngàncũng pha (2940).








