Xương bồ vị thuốc quý
Các loài xương bồ đều có những đặc điểm chung về hình thái như sau: Cây thảo, sống lâu năm mọc trên đá ẩm hoặc đất ẩm. Thân rễ mọc bò ngang, có nhiều đốt và mùi thơm. Lá hình dải, có bẹ mọc ốp vào nhau thành hai dãy đối xứng, gân song song, hai mặt nhẵn. Cụm hoa mọc ở đầu một cán dẹt giữa hai túm lá thành bông mo, tiếp đó là một lá bắc to và dài dạng lá vượt cao hơn cụm hoa rất nhiều, nom như cụm hoa mọc trên lá, bông hình trụ thuôn dần và hơi cong ở phần đỉnh, hoa nhiều lưỡng tính, bao hoa có 6 thuỳ, nhị 6, chỉ nhị ngắn; bầu gần hình trụ chứa nhiều noãn. Quả mọng, khi chín màu đỏ.
Mùa hoa quả:tháng 3-7
Các loài chỉ khác nhau ở chỗ thạch xương bồ có thân rễ sống bám vào đá ở chỗ nước chảy, phân nhánh, dài 5-30cm, lá dài 10-50cm, gân giữa không nổi gồ. Còn thân rễ thuỷ xương bồ mọc sâu trong bùn chỗ nước tĩnh, không phân nhánh, dài 50cm hay hơn; lá dài 60-100cm, gân giữa nổi gồ.
Xương bồ mọc tự nhiên và được trồng ở nhiều nơi. Thuỷ xương bồ hay được trồng ở đồng bằng và vùng ven biển. Thạch xương bồ lá nhỏ còn là cây cảnh trên các hòn non bộ.
Từ thân rễ của các loài xương bồ, người ta đã chiết được tinh dầu với tỷ lệ 1,5-3,5% ở thuỷ xương bồ và 0,5-0,8% ở thạch xương bồ. Tinh dầu chứa hoạt chất tác dụng là anpha-asaron và beta-asaron, limonen, camphen, pinen, cinecl, azulen. Ngoài ra, trong cây còn có tanin, chất nhầy, alcaloid, glucozid đắng.
Bộ phận dùng làm thuốc của xương bồ là thân rễ, thu hái lúc già, đào về, rửa sạch đất cát, bỏ gốc lá và rễ con, cắt thành từng đoạn dài 8-15cm rồi phơi nắng hoặc sấy ở nhiệt độ 50-60°C cho khô. Dược liệu đã chế biến có mặt ở ngoài màu nâu, thịt trắng hồng, khô chắc, ít xơ, có vị cay, đắng, mùi thơm, tính ấm, có tác dụng khai khiếu, hoá đàm, kích thích tính tiêu hóa, giải độc, sát khuẩn, giảm đau, chữa tiêu hoá kém, cảm sốt, đau dạ dày, viêm đường hô hấp, bệnh về tim, tiêu chảy, ho, hen xuyễn, tê thấp. Liều dùng hàng ngày: 6-12g dưới dạng thuốc sắc hoặc hoàn tán. Dùng ngoài, xương bồ phơi khô, tán nhỏ, sắc hoặc nấu nước tắm rửa để trị bệnh ngoài da, trĩ. Thuốc còn có tác dụng diệt chấy, rận, sâu bọ.
Kiêng kỵ:Trường hợp âm hư, hoạt tinh, ra nhiều mồ hôi, không nên dùng các loại xương bồ.
Y học hiện đại dùng thuỷ xương bồ là chủ yếu.
Những năm gần đây, trường Đại học Y khoa Hà Nội đã nghiên cứu dùng thuỷ xương bồ làm thuốc chống rung cơ tim, chữa loạn nhịp tim có kết quả tốt.
Y học cổ truyền dùng cả thạch xương bồ và thuỷ xương bồ. Dùng riêng hoặc phối hợp với các vị thuốc khác trong những trường hợp sau.
- Chữa ho lâu ngày:Thạch xương bồ (16g), hạt chanh (10g), hạt quất (10g), mật gà đen (1cái). Tất cả để tươi giã nhỏ, thêm đường, hấp chín, uống làm 2-3 lần trong ngày.
- Chữa hen xuyễn mạn tính:Thạch xương bồ (12g), tang bì (10g), khoản đông hoa (8g), thanh bồ (8g), cát cánh (8g), ma hoàng (8g), tiểu hồi (6g), tử tô (6g), cúc bách nhật (12 bông), gừng sống (5lát), phèn phi (2g). Sắc với 400ml nước còn 100ml, uống làm hai lần trong ngày.
- Chữa viêm thanh quản, nói không ra tiếng:Thạch xương bồ (12g), tri mẫu (12g), trần bì (8g) phục linh (8g), bán hạ chế (8g), cát cánh (8g), bôi mẫu (8g), cam thảo (6g). Tán bột, mỗi ngày uống 10g, chia làm hai lần.
- Chữa cảm lạnh, choáng váng:Thuỷ xương bồ (8g), địa liền (8g). Hai vị tán nhỏ, sắc uống trong ngày.
- Chữa tăng huyết áp ở người cao tuổi:Thủy xương bồ (8g), bạch truật (16g), hạt sen (16g), ý dĩ (16g), hoài sơn (16g), đảng sâm (12g), ngưu tất (12g), hạt muồng (12g), tâm sen (8g), đăng tâm (4g). Sắc uống ngày một thang.
- Chữa sốt rét:Thuỷ xương bồ (8g), lá ngải cứu (10g), lá na (10g). Sắc uống trong ngày. Dùng 5-7 ngày.
Ở Trung Quốc, xương bồ được dùng với tác dụng làm ăn ngon, kích thích tiêu hoá, trừ giun. Ở Nêpan, người ta nhai thân rễ xương bồ, nuốt nước dần dần để chữa ho, viêm họng. Bột xương bồ trộn với dầu hạt cải, bôi chữa trĩ. Ở Ấn Độ, xương bồ ngâm với mật ong, uống chữa viêm khí quản. Người Nhật Bản thường pha tinh dầu xương bồ vào nước tắm để trị bệnh ngoài da. Ở Thái Lan và Philippin, xương bồ là thuốc thông trung tiện, giảm đau.
Nguồn: Khoa học và Đời sống, số 264,265, ngày 30/4/2005, trang 94,95.