Xây nhà máy Điện hạt nhân ở Việt Nam cần làm từ từ để tích lũy kinh nghiệm
PV: Thưa Giáo sư Phạm Duy Hiển, những sự cố như ở các nhà máy điện hạt nhân Fukushima có thể được dự báo trước hay không?
Giáo sư Phạm Duy Hiển:Qua những gì đã xảy ra, có thể nói là Nhật Bản có một công nghệ hạt nhân rất tiên tiến, đội ngũ chuyên gia của họ cũng rất tiên tiến, nhưng con người không thể tính hết mọi chuyện và nhất là đối với điện hạt nhân. Tất nhiên, xác suất xảy ra không phải là thường xuyên, do đó người ta có thể không để ý. Chỉ đến khi xảy ra như thế này, người ta mới bắt đầu thấy là con người chưa tính hết mọi việc. Trên thực tế, người ta phải đo gia tốc của mặt nền, để căn cứ vào đó tính toán sức chịu đựng của lò. Cũng có người nói rằng sự cố vừa rồi là vẫn nằm trong giới hạn, nhưng tôi nghĩ động đất cấp 9 là rất khó lượng và rất nhiều máy móc, thiết bị, nhà cửa bên trong không thể tính hết được.
Ở Việt Nam cũng có người nghĩ rằng sau này làm lò phản ứng hạt nhân thế hệ thứ 3 thì chắc là có thể tránh khỏi những chuyện ấy. Lò phản ứng thế hệ thứ 3 đúng là hiện đại hơn, tiên tiến hơn, nhưng đó là nói về cái đoạn làm sao dập được phản ứng dây chuyền trong lò. Tai nạn ở Fukushima không phải là ở cái đoạn ấy mà là ở cái đoạn sau, tức là khi lò đã dừng rồi, nhưng lại không tải nhiệt các thanh phóng xạ được. Nếu con người cứ nghĩ rằng máy móc thiết bị bao giờ cũng tốt, thì thiên nhiên cũng có những điều không ai lường trước được. Không tính được hết những chuyện xảy ra đã đành rồi, nhưng mà khi nó đã xảy ra, thì người này làm việc này, người kia làm việc kia, hệ thống ứng phó ra sao, cũng khó mà tính hết được.
PV: Sự cố ở Fukushima buộc cả thế giới phải rà soát lại mức độ an toàn của các nhà máy hạt nhân. Đối với Việt Nam , chúng ta phải suy nghĩ lại chính sách phát triển hạt nhân như thế nào?
Giáo sư Phạm Duy Hiển:Không cứ gì Việt Nam , các nước khác cũng phải xem xét lại. Từng nhà khoa học tham gia vào chuyện này, cũng có những cái trước đây không ngờ được, thì bây giờ cũng phải suy nghĩ lại. Cho nên, từng người, từng tập thể, cả Chính phủ, chắc rồi cũng sẽ xem xét lại trên khái niệm là không có cái gì an toàn tuyệt đối. Nhất là cả con người, cả bộ máy, cả hạ tầng cơ sở phải đồng bộ. Nếu không tương thích được với mức độ nghiêm trọng của điện hạt nhân thì không làm được.
Tôi không dám nói là có nên làm điện hạt nhân hay không, vì đằng nào cũng đã có quyết định rồi, nhưng qua sự cố ở Fukushima, cần phải chấn chỉnh lại như thế nào? Theo tôi, cái quan trọng nhất ở Việt Nam vẫn là con người, là tổ chức. Đã làm điện hạt nhân, tức là làm chuyện nghiêm túc nhất, thì không bao giờ được xem nhà máy hạt nhân giống như là một nhà máy đóng giày hay một nhà máy nào khác. Cho nên, tôi không thể khẳng định được là Việt Nam rồi đây sẽ như thế nào.
PV: Việt Nam đã dự trù xây đến 8 nhà máy hạt nhân. Theo giáo sư, sau sự cố vừa rồi ở Fukushima , liệu chúng ta có nên giảm bớt số lượng nhà máy này?
Giáo sư Phạm Duy Hiển:Ngay từ đầu tôi đã nói là không thể làm liều lĩnh như vậy được. Qua sự kiện vừa rồi ở Nhật Bản, tất cả mọi người đều thấy là những người rất giỏi, rất nghiêm túc, có kinh nghiệm rất nhiều, thì mới xử lý được những sự cố như vậy. Còn nếu tất cả đều ởm ờ như nhau thì làm sao được? Cái khó nhất đối với Việt Nam , đó là không có cái đội ngũ đấy. Trong thời gian qua, Việt Nam đã rất lúng túng trong việc xây dựng đội ngũ chuyên gia. Chúng ta nên làm từ từ, làm đến đâu, học hỏi đến đấy, tích lũy kinh nghiệm đến đấy, xây dựng đội ngũ đến đấy, chắc rồi hãy làm tiếp, trên tinh thần là không phải giống như ta mua một món đồ về dùng, mà người Việt Nam phải tự làm. Như thế thì sẽ thấy là tốc độ làm như thế là không được. Tôi cứ nghĩ giỏi lắm là năm 2020 làm lò phản ứng thứ nhất và 5 năm sau mới làm lò thứ nhì. Tôi không tin là có thể làm được với tốc độ nhanh hơn được, nhất là Việt Nam vẫn còn rất lúng túng trong việc xây dựng đội ngũ nhân lực trình độ cao. Tôi nhìn quanh nhìn quất thì chưa thấy anh nào thuộc thế hệ 40, 50 tuổi rồi sẽ trở thành những chuyên gia tốt về hạt nhân.
PV: Xin cám ơn giáo sư.








