Xã hội cổ truyền Mường và hoa văn cạp váy
Xã hội cổ truyền Mường và hoa văn cạp váy.
Trong xã hội Mường trước kia - và cả ngày nay nữa, ở mức độ mà nghề nghiệp dệt cạp váy còn được bảo lưu - kỹ thuật dệt, cũng như mẫu mực hoa văn, được mẹ truyền cho con gái trong khuôn khổ của tiểu gia đình phụ quyền mà tiếng dân tộc gọi là NOỌC (nóc, nóc nhà, tức hộ). Tỉnh Hoà Bình, cho đến ngày tôi biết những dòng này, chỉ mới có mỗi một hợp tác xã dệt cạp váy và mặt chăn tổ chức tại thị xã. Qua nhiều đời, mỗi nóc làm nghề dệt cạp váy và mặt chăn tổ chức tại thị xã. Qua nhiều đời, mỗi nóc làm nghề dệt cạp váy tạo ra “truyền thống” riêng của mình. Hơn nữa, địa bàn Mường trước Cách mạng tháng Tám phân thành nhiều MƯƠNG (mường), mỗi mường là một địa vực nhỏ gồm nhiều làng, và được đặt dưới quyền cai quản thống nhất của một dòng họ “quý tộc” thế tập (LANG). Mặc dầu phong tục - tập quán Mường là cơ bản thống nhất trên bình diện tộc người, mặc dầu việc đi lại, trao đổi, cũng như lấy vợ, lấy chồng giữa cư dân các mường khác nhau, không hề bị cấm đoán hay hạn chế, nhưng tính tự cấp -tự túc của nền kinh tế Mường cổ truyền ít nhiều cũng đã góp phần củng cố sự biệt lập của từng mường, khiến mỗi mường có thể tự cất giữ những truyền thống riêng, ít nhất cũng “dự trữ” cho mình một vài nét độc đáo bên cạnh truyền thống chung của cả tộc, ngay cả trên miếng đất chật hẹp của nghệ thuật tạo hình hoa văn. . Cạp váy vùng Mường Vang (thuộc huyện Lạc Sơn ngày nay), chẳng hạn, được người Mường ở Hoà Bình đồng thanh đánh giá là đẹp nhất, do đó cũng được giá nhất trên thị trường. Trong những điều kiện như vậy, mặc dù cạp váy nào cũng tuân thủ các quy tắc tối thiểu, mặc dầu “hình hoạ” của hoa văn cạp váy bị những hạn chế kỹ thuật dệt quy định đến một độ đáng kể, mỗi một mẫu hoa văn vẫn có khả năng biến dạng tuỳ tay người dệt. Cho nên không có gì lạ, nếu các hình vẽ kèm theo công trình này có thể giới thiệu 25 dạng hoa văn rồng khác nhau (xem hình vẽ).
Về mặt kinh tế, nên nhớ rằng cạp váy là một thương phẩm. Trước Cách mạng tháng Tám, trừ những nóc nhà quá nghèo phải quanh năm luẩn quẩn trong rừng để đào củ - hái lá, còn thì mỗi gia đình Mường đều cố tự túc lấy vải mặc: bấy giờ, hầu như nhà nào cũng có một nương bông và có khung cửi dệt vải thô. Nhưng kỹ thuật dệt cạp váy vốn phức tạp, bao gồm nhiều khâu thao tác hơn dệt vải thông thường, vì vậy mà đòi hỏi thời gian luyện nghề tương đối lâu dài, đã thết dệt cạp váy chỉ là nghề phụ làm lúc nông nhàn. Do đó, số nóc dệt cạp váy không nhiều. Người ta dệt cạp váy không nhằm tự túc, mà chủ yếu để cung cấp cho thị trường, dù chỉ là thị trường không đều kỳ. Ngoài chợ, người bán cạp váy có thể nhận thấy rằng, dạng rồng nay dạng rồng kia được khách hàng ưa chuộng hơn, và nếu có dịp học được cách lên go để đạt được những kết quả ấy thì họ cũng không ngần ngại áp dụng. Ngoài ra, mẫu mực hoa văn của từng nóc dệt cạp váy có thể nhường bước cho những dạng đẹp hơn do một thành viên mới du nhập vào gia đình mang đến: một cô dâu mới, một bà mẹ kế… Cũng có thể giả thiết rằng các Nang (nàng, tức phụ nữ nhà lang) đã đóng góp nhiều vào việc phong phú hoá các dạng hoa văn cạp váy. Những người đàn bà “quý tộc” này sống một cuộc đời nói chung là nhàn rỗi, ngoài việc trông nom tôi tớ trong nhà, họ chỉ dệt cạp váy hay mặt chăn bán làm vốn riêng, và thường tranh đua nhau về nghệ thuật dệt. Đã thế, họ lại có nhiều dịp đi chơi xa, so với phụ nữ bình dân, có nhiều cơ hội tiếp xúc với văn hoa Thái, văn hoá Việt…, thấy được tận mắt nhiều loại hoa văn hơn. Và nếu có một thời nào đó mà hoa văn cạp váy gắn với tôn giáo, thì thời ấy đã quá xa xôi, và ý nghĩa tôn giáo của hoa văn cũng đã bị quên lãng từ lâu rồi, do đó không có một hình thức kiêng kỵ nào ngăn cấm người dệt cải dạng hoa văn.
Tính truyền thống của hoa văn cạp váy
![]() |
| Một số mô típ hoa văn trên cạp váy Mường |
Màu sắc hoa văn
Ta đã nói nhiều đến tác động của kỹ thuật dệt lên “hình hoạ” của hoa văn cạp váy. Cũng trong mục kỹ thuật, còn có phần nhuộn sợi, khâu tạo màu cho hoa văn. Như của mọi cộng đồng người ở miền núi nước ta, phổ mầu của người Mường rất hẹp, còn hẹp hơn của nhiều tộc khác. Chủ yếu được rút ra từ chất liệu thực vật, đây toàn là những màu nguyên, với sắc độ chói chang. Nhưng, như đã nói ở phần trên, với cảm năng thẩm mỹ tinh tế của mình, người Mường đã biết dùng chất rậm rạp để đập vụn” các màu nguyên sặc sỡ ấy thành vô vàn mảnh màu nhỏ chen nhau trên cạp váy, bỏ tính tập trung của “hình hoạ” để đạt cho kỳ được hiệu quả màu sắc, nhằm nâng bối cảnh đen - trắng của trang phục lên một bậc. Với hiệu quả tổng quát đó những độ sẫm của màu đỏ, độ chua của màu vàng, độ choé của màu xanh bỗng biến đâu mất, chỉ để lại một ấn tượng nửa kín nửa vui phần nào có rối mắt, nhưng được cái sống sít, vừa đủ để bước đầu phả nhịp động của hình và màu vào nền áo - váy thầm lặng.
Tóm lại, trong phổ màu của người dệt cạp váy, đen đóng vai trò quan trọng. Mặc dầu không phải là màu chủ trên cạp váy, không được dùng để tô màu cho hoa văn hoàn chỉnh nào, đen vẫn là chất vừa gắn liền với các màu nguyên chỉ chực chọi nhau. Nó quét lên toàn bộ cạp váy một nước “pa-tin” làm cho mọi hoạ tiết và và màu sắc trầm hẳn xuống. Nhưng hiệu quả của màu sắc cạp váy còn biến đổi tuỳ sợi bông hay sợ tơ. Sợi tơ săn hơn sợi bông, do đó hoa văn trên cạp tơ sắc nét hơn, mà sợi tơ còn óng hơn sợi bông, khiến cạp tơ như được phủ một lớp men trung hoà. Màu sắc cạp váy nhờ chất loang loáng ấy mà có phần tươi ra, nhưng đồng thời cũng vì thế mà lắng sâu thêm.
Người Mường ngày nay đang bước những bước đầu tiên trên con đường hiện đại hoá cuộc sống. Qua phân vùng kinh tế, họ không còn nuôi tằm - kéo tơ, họ không còn trồng bông - dệt vải. Mậu dịch quốc doanh cung cấp cho họ mọi thứ vải cần thiết, cả sợi bông nhuộm sẵn để dệt cạp váy. Màu hoá học chóng phai hơn màu cổ truyền, sắc độ từng màu cũng không khỏi biến đổi ít nhiều so với màu cổ truyền. Nhưng khi không còn trên tay một cạp váy nào chưa hạ màu, thực khó định khoảng chênh nhau giữa hai chuỗi sắc độ. Một số mế nhận xét rằng màu ngày nay vẫn cố bám màu xưa, tuy tươi hơn và cũng trơ hơn.Phổ màu hoá học tất rộng hơn phổ màu cổ truyền nhiều, nhưng không phải vì vậy mà làm giàu thêm nhiều cho màu sắc cạp váy thời nay. Điều đó có lý do của nó. Dưới mắt của người Mường, cạp váy là một biểu hiện của truyền thống, của lối sống ông cha mà họ chưa đang tâm đoạn tuyệt hẳn. Cố bám càng sát càng hay, hoa văn cũng như màu sắc xưa là một ứng xử theo truyền thống. Còn có lý do kỹ thuật nữa, muốn thêm màu, phải thêm go, mà go quá nhiều thì cố thức lên go khi chuẩn bị và công thức đếm sợi trong quá trình dệt sẽ bị đảo lộn hoàn toàn. Tuy nhiên, phổ màu hoá học cũng đã cung cấp cho người dệt cạp với thời nay một màu mới: màu lam. Trong khi đó màu xanh lá cây truyền thống đã “hoá học hoá” để trở thành xanh lá mạ trong nhiều trường hợp. Vì vậy, ngày nay người Mường phân biệt trên cạp váy hai sắc xanh: màu thanh thiên (tức lam, hay xanh da trời), và màu xeng lạ ma (màu xanh lá mạ).
Nếu màu sắc của hoa văn cạp váy có biến đổi ít nhiều từ Cách mạng tháng Tám đến nay, thì có thể nói rằng “hình hoạ” của nó không nhúc nhích là bao nhiêu trên những khoảng thời gian chắc hẳn dài hơn thế nhiều. Lý do kỹ thuật của nhịp chuyển chậm chạp đó đã được phân tích trong một đoạn trước. Chính sự ngưng đọng ấy làm cho việc nghiên cứu hoa văn cạp váy càng thêm lý thú. Chỉ qua nhận xét đầu tay cũng đã thấy rằng cạp váy Mường còn “găm” lại đến tận nay một số mô - típ hay bố cục vốn là hồi âm của nhiều nền văn minh cổ xưa. Và điều đó cung cấp cho cạp váy Mường một “chiều” bất ngờ: chiều lịch sử.
Nguồn: Dân tộc & Thời đại, số 74, 1/2005, tr 28 - 30









