Vùng Đồng Tháp Mười
Nó được hình thành không dựa trên cơ sở những phát hiện của sử học và khảo cổ học về Chân Lạp và Phù Nam cổ; song, để tìm hiểu nguồn gốc, nội dung, ý nghĩa của địa danh này, không thể không vận dụng đến thành tựu của hai ngành học nói trên về các tộc người đã cư trú trên cùng đất Đồng Tháp Mười trước đây và cả phương ngữ học Nam bộ cũng như nhiều ngành học khác có liên quan. Thành tựu của sử học và khảo cổ học giúp cho chúng ta biết ngày càng rõ hơn nguồn gốc, ý nghĩa; còn phương ngữ học thì giúp chúng ta biết được quà trình hình thành và chuyển hóa của địa danh nổi tiếng này.
Để góp phần tìm hiểu vùng Đồng Tháp Mười; trước hết, chúng tôi xin trình bày một số tư liệu liên quan đến nội dung, ý nghĩa của địa danh Tháp Mười, kể cả các giả thuyết:
1. Trong dân gian trước đây có một vài giả thuyết về tên gọi Tháp Mười, xin được tóm lược như sau:
- Giả thuyết I: Ngày xưa, cánh đồng này thuộc một vương quốc giàu có. Trong nước có 10 đời quốc vương, mỗi ông xây cho mình một ngôi tháp làm nơi an nghỉ cuối cùng; ngôi tháp của ông vua thứ 10 là ngôi tháp mà chúng ta đang nói. Từ đó, có lời đồn là trong Tháp Mười có vàng.
- Giả thuyết II: Cho răng đây là cái chùa - tháp thứ 10, tính từ Lục Chân Lạp xuống, nối liền các chùa - tháp này là các con đường lót đá.
- Giả thuyết III: Đây là cái tháp 10 tầng của Chân Lạp; có lẽ, theo thuyết này nên chính quyền Ngô Đình Diệm, vào năm 1958, cho xây lại một cái tháp 10 tầng cao 42 m, theo kiểu tháp chùa Thiên Mụ (Huế), một loại hình kiến trúc Trung Quốc.
- Giả thuyết IV: Đây là tháp canh thứ 10 (tính từ Ba Sao vào Gò Tháp), hoặc 10 tầng (còn gọi là thang trong) của nghĩa quân Thiên Hộ Dương để canh chừng giặc Pháp.
Còn tư liệu thành văn cho thấy vùng đồng Tháp Mười (chữ đồng không viết hoa) lần lượt có tên gọi:
- Sách Gia Định thành thông chícủa Trịnh Hoài Đức (hoàn thành khoảng 1820): ở tập Thượng, vùng đồng Tháp Mười được gọi là Vô-tà-ôn (tr.14), chằm lớn, với tư cách là một danh từ chung (tr.63) là Lâm Tẫu (tr.69).
- Sách Đại Nam nhất thống chí - Lục tỉnh Nam Việt(hoàn thành sau Gia Định thành thông chívài chục năm): ở tập Trung, vùng này, được gọi là chằm Mãng Trạch (tr.9) và là hồ Pha Trạch (tr.20).
- Bản đồ của Pháp vẽ năm 1862 (để thi hành Hòa ước Nhâm Tuất), vùng này được ghi là Plaine inondée couverte d’herbe tức Cánh đồng ngập nước đầy cỏ), sau đó họ ghi gọn lại là Plaine des Joncs (tức Đồng Cỏ Lát hay Đồng Cỏ Bàng).
- Châu bản triều Nguyễn(CB số 287, tờ 1 đến tờ 3) ngày 1 tháng 3 năm Tự Đức thứ XVIII (tức ngày 27 - 3 - 1865), trong đó có đoạn: “… Lại việc nữa: tháng Chạp qua, đảng của Thiên Hộ Dương, tên quản Là đã đánh giết 4 người Tây, bắt sống một. Nói lên rằng đã giải đến Vãng Tháp (低塔) nộp cho Thiên Hộ Dương…”. Cũng trong Châu bản CB số 287 này, từ tờ 143 đến tờ 145, ngày 7 tháng 6 năm Tự Đức thứ XIX (tức ngày 18 - 7 - 1866), lại có đoạn viết: “… Tên phạm đó (tức Võ Duy Dương) tự nó cách nuôi dưỡng riêng của nó, nhưng điều ác trong thiên hạ chỉ là một vậy. Luật là phép nước, há lại dung tha một ai? Trước đây tên phạm đó ẩn náo ở Thập Tháp (十塔), nơi tiếp cận với ranh giới tỉnh Vĩnh Long, chỉ có nơi đó mới được nghiêm ngặt phòng triệt…”.
- Công báo Nam kỳ thuộc Pháp:đưa tin: “Ngày 17 - 4 - 1866 đã chiếm được Tháp Mười”.
- Hai báo cáo của Thiên hộ Võ Duy Dương gởi cho vua Tự Đức trong năm 1865, 1866; bị quân Pháp tịch thu vào tháng 4 - 1866, được Gustave Janneau dịch và công bố trên Revue Indochinoise,số 2, năm 1914, dưới nhan đề Deux rapports militaires du Général VO DUY DUONG,tên Tháp Mười, viết bằng Quốc ngữ, được nhắc đi nhắc lại nhiều lần.
- Trong Dossier SL.4522(1869 - 1881), Lưu trữ tại TT.LT.Tư II (hồ sơ ghi chép về cái chết và người vợ thứ của Võ Duy Dương); trong đó có báo cáo mật thám, có đoạn viết: “Tôi có vinh hạnh cung cấp ông những tin tức về Thiên hộ. Người này tên là Dương bỏ trốn sau khi Tháp Mười bị chiếm, đã lên một chiếc ghe cửa đi Bình Thuận, trước khi đến xứ này, ông ấy đã bị lên Lý Sen, cầm đầu một đám cướp biển tấn công…” (chữ Tháp Mười được viết bằng Quốc ngữ).
Những phát hiện của khoa học lịch sử và khảo cổ học cho biết:
- Lê Hương, trong một bài viết (1), cho rằng: Tháp Mười là một trong những ngôi tháp bằng đá, do vua Jayavarman VII (1181 - 1218) xây cất trên khắp lãnh thổ để thờ vị thần Bà La Môn Lockecvara là vị thần có chức năng trị bệnh cho nhân loại. Những ngôi tháp này được xây dọc theo những con đường lớn trong nước mà ngôi tháp trong đồng Tháp Mười, tính từ điểm xuất phát, đứng vào hàng thứ 10. Thời gian đã tàn phá công trình kiến trúc này, dãy nhà gỗ tiêu tan, chỉ còn lại một tượng sư tử và một linh phù (linga) bằng đá, dưới bệ có khắc chữ Bắc Phạn (Sanskrit) ghi tên tháp thứ mười. Năm 1932, nhà khảo cổ học người Pháp, Parmentier, vào Tháp Mười phát hiện ra ngôi tháp đổ nát và đã đọc những dòng chữ Phạn ghi tên ngôi tháp thứ mười.
- Trong 2 quyển Lịch sử thế giới trung đại(2)và Lịch sử Campuchia(3)đều có nêu: vua Jayavarman VII (Chân Lạp) lập 102 bệnh viện phân bổ trong toàn vương quốc mà cả 4 đẳng cấp đều có thể được chăm sóc tại đây. Mỗi bệnh viện đều có xây một ngôi chùa nhỏ và ngôi tháp thờ thần trị bệnh Lokecvara. Người ta đã tìm thấy trên 30 bệnh viện trong đó có 15 nơi đã tìm thấy cả bia đá với nội dung giống nhau, nói về ý định, việc cung ứng, tổ chức và chữa bệnh.
- Các nhà khảo cổ học thuộc trường Viễn Đông Bác cổ (H. Parmentier, L. Malleret, J.Y Chalys): Cho rằng từ thế kỷ V đến thế kỷ VIII, gò Tháp Mười mang tên Prasat Pream Loven (năm ngôi tháp ấy năm ngôi đền thờ) chứ không phải tháp có năm ngăn (compartiménts) hay năm phòng (chamgbré) và đã từng là một trung tâm tôn giáo khá quan trọng, có liên quan đến sự kiện “Vị thái tử Gunavarman, mặc dù còn trẻ tuổi đã được phong cho trị vì một lãnh thổ sùng đạo được chinh phục từ đầm lầy, vì ông là người vừa có đạo đức, vừa có phẩm hạnh…” (4).
Qua 3 nguồn tư liệu trên, chúng tôi xin có mấy nhận xét:
- Địa danh Tháp Mười có 2 âm tiết:
/Tháp/ + /Mười/, được hình thành theo dạng thức: danh từ + số từ.
Về âm tiết /Tháp/, cả 3 nguồn tư liệu trên đều có liên quan, đều có hình ảnh ngôi tháp. Ở đây chữ ‘tháp’, một danh từ chung chỉ một công trình xây dựng: ngôi tháp, cái tháp; đã trở thành một yếu tố của địa danh Tháp Mười và chữ Tháp được viết hoa.
Về âm tiết /Mười/, nó vốn là danh từ chỉ số lượng (mười tầng, cũng có thể là mười ngôi tháp) hoặc số thứ tự (thứ mười), một đặc điểm của ngôi tháp.
Hiện nay, trong dư luận chưa có sự thống nhất về nội dung, ý nghĩa của âm tiết /Mười/. Địa danh Tháp Mười đều có thể mang nội dung tháp “thứ mười”, tháp “mười tầng” hay mười cái tháp.
- Phần lớn các địa danh ở Nam bộ mà chúng ta đang sử dụng hiện nay, đều được hình thành muộn nhất là đến đầu thế kỷ XIX và đã được Trịnh Hoài Đức tập hợp, trình bày trong Gia Định thành thông chí,vào khoảng năm 1820; sau đó được thể hiện chi tiết, cụ thể hơn trong Địa bạ Nam kỳ(1836). Ngoài các địa danh hành chính, do nhà nước chủ động đặt bằng các mỹ từ Hán Việt; phần nhiều địa danh còn lại như tên xóm, trong địa bạ thường chép là xứ, tên sông, rạch, giồng, gò… đều do nhân dân tự đặt ra được qua quá trình giao tiếp thường là âm nôm, căn cứ vào các đặc điểm của đối tượng để đặt tên cho nó. Nhưng khi ghi chép vào văn tự thì các địa danh này được thay thế bằng ngữ âm Hán Việt, nên Tháp Mười trở thành Thập Tháp.
Khi thực dân Pháp chính thức chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam kỳ, chúng chủ quan áp đặt cho vùng này một cái tên bằng tiếng Pháp “Plaine inondée couverte d’herbe”, sau rút gọn lại là “Plaine des Joncs” dịch sang tiếng Việt là “Đồng Cỏ Lát”, “Đồng Cỏ Bàng”… Nhưng dân ta vẫn gọi là “Tháp Mười”, luôn gắn liền với tên người “Thiên hộ Dương”. Qua thời gian, Tháp Mười trở thành tên gọi cho cả một vùng rộng lớn: Đồng Tháp Mười, thay thế Đồng Cỏ Lát “Plaine des Joncs do thực dân Pháp áp đặt. Đến đây chữ “đồng”, danh từ chung, trở thành một thành tố của địa danh Đồng Tháp Mười, nên chữ Đồng viết hoa.
Tóm lại, địa danh Tháp Mười được hình thành vào khoảng đầu của thế kỷ XIX và đã nhanh chóng trở thành một trong những địa danh nổi tiếng trong phạm vi cả nước, mang nhiều ý nghĩa quan trọng về địa lý và lịch sử.
2. Đồng Tháp Mười phía bắc giáp với Campuchia, phía tây và nam giáp sông Tiền, phía đông giáp sông Vàm Cỏ Đông; nằm trong địa giới 3 tỉnh Long An (các huyện Vĩnh Hưng, Tuyên Thạnh, Thạnh Hóa, Mộc Hóa, Tân Thạnh, Đức Huệ và một phần Phủ Thừa), Tiền Giang (huyện Tân Phú) và Đồng Tháp (các huyện Hồng Ngự, Tân Hồng, Tam Nông, Tháp Mười, Cao Lãnh và TX. Cao Lãnh).
Về diện tích Đồng Tháp Mười, tùy theo lĩnh vực nghiên cứu, người ta sử dụng con số khác nhau, là: 950.000 hecta (5), 700.000 hecta (6)hoặc 544.000 hecta (7). Con số sau cùng dễ chấp nhận hơn, vì nó được phân bố cụ thể ở 3 tỉnh nêu trên: Long An chiếm 261.000 hecta, Tiền Giang chiếm 92.000 hecta và Đồng Tháp 246.000 hecta.
Nơi đây không hẳn là một bồn trũng hoàn toàn, vì ngoài vạt đất giồng chung quanh, ngay tại vùng trung tâm cũng nổi lên nhiều giồng gò cao. Để có cái nhìn tổng quát về vùng đất trũng này, tạm chia Đồng Tháp Mười ra 3 vùng:
- Vùng đất giồng ven biển: Bao gồm vùng đất phù sa cổ Ba Giồng và vùng đất phù sa ven sông Tiền, từ Cái Bè (Tiền Giang) đến Hồng Ngự (Đồng Tháp). Vào mùa nước, vùng đất này ít khi ngập sâu, đất lại màu mỡ, nên được lưu dân chú ý khai phá sớm và trở thành địa bàn trung chuyển khai thác vùng sâu Đồng Tháp Mười.
- Vùng trũng trung tâm: Vùng này chiếm phần lớn diện tích Đồng Tháp Mười, vào mùa nước, thường bị ngập từ 2 - 3m, có năm ngập sâu hơn. Rải rác trong vùng nổi lên một số giồng, gò. Những giồng gò nay đóng vai trò tích cực trong quá trình khai thác Đồng Tháp Mười, dân cư thường tập trung ở đây vào mùa nước. Vào mùa nước kiệt ở đây thiếu nước ngọt, phèn “lừng” lên, nước chỉ còn động lại ở các lung trấp, đìa, bàu… không dùng được, cây cỏ bắt đầu khi rụi. Cuộc sống khó khăn, di chuyển chủ yếu đi bộ hoặc bằng xe trâu.
- Vùng giữa hai sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây: thuộc huyện Đức Huệ và một phần huyện Thủ Thừa của Long An. Phía Bắc (huyện Đức Huệ) đất cao; phía nam, đất thấp, nhưng nằm giữa hai sông lớn nên ít khi ngập sâu và lâu.
3. Trong sách Đại Nam thực lục tiền biêncó ghi chép, đến năm 1741, toàn Nam kỳ có 9 khối trường: Quy An, Quy Hóa, Cảnh Dương, Thiên Mụ, Tam Lạch, Tân Thịnh, Quản Thảo, Hoàng Lạp và Bả Cảnh. Nhờ bia Tiền hiền làng Mỹ Trà (nay thuộc thành phố Cao Lãnh, Đồng Tháp), ta xác định khố trường Bả Cảnh lúc ấy cai quản thuế khóa ở vùng Cao Lãnh. Như vậy, đến thời điểm này, lưu dân vào khu vực đất cao ráo Ba Giồng và ven Sông Tiền cư ngụ khá đông và công khai phá bước đầu có kết quả.
Cuộc chiến tranh Tây Sơn - Nguyễn Ánh trên đất Nam bộ, đã tác động đến tình hình xã hội Đồng Tháp Mười. Khu vực Rạch Chanh và Ba Giồng là nơi thường xuyên diễn ra các cuộc đụng độ, các cuộc điều quân và cũng là căn cứ của quân Đông Sơn. Để theo đuổi cuộc chiến, cả hai chính quyền Tây Sơn, cũng như Nguyễn Ánh đều ra sức khai thác Đồng Tháp Mười. Năm 1785, Đô đốc Đặng Văn Trấn của Tây Sơn đã cho đào kênh mới Tranh Giang nối liền Rạch Chanh với sông Ba Rày (Bà Bèo) cắt đứt khu vực Ba Giồng, Căn cứ quân Đông Sơn, cũng mang lại một số tác động về kinh tế xã hội. Còn Nguyễn Ánh thì cho quân khai thác gỗ ở thượng lưu sông Vàm Cỏ Tây để đóng chiến thuyền. Chiến tranh vô tình đưa một bộ phận dân cư, lính đào ngũ hai bên đến nơi xa vùng chiến sự hình thành thêm một số xã thôn ở vùng ven sông Tiền và Vàm Cỏ Tây.
Từ năm 1802 đến đầu năm 1859, là thời kỳ hòa bình, ổn định ở Nam bộ; đồng thời với cuộc chuyển cư tự phát lẻ tẻ của lưu dân, dân giàu có từ Ngũ Quảng vào, nhà Nguyễn có chủ trương khai thác Đồng Tháp Mười bằng hình thức khai hoang lập ấp tự phát và khai hoang lập đồn điền của nhà nước.
Theo Hòa ước Nhâm Tuất (1862), nhà Nguyễn nhường 3 tỉnh miền Đông Nam kỳ cho Pháp. Đồng Tháp Mười nhanh chóng trở thành căn cứ kháng chiến, trung tâm tập hợp các lực lượng chống Pháp cả Nam bộ.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, chiến dịch lịch sử Hồ Chí Minh kết thúc, Đồng Tháp Mười cùng cả nước bước vào công cuộc xây dựng, tái thiết.
CHÚ THÍCH:
(1): Lê Hương, Địa danh, di tích, thắng cảnh trong vùng người Việt gốc Miên,đăng trong Tập san Sử Địa,số 14 & 15, Sài Gòn, 1969.
(2) Lương Inh và Đặng Đức An, Lịch sử thế giới trung đại,Nxb ĐHSP, 1990.
(3) Phạm Trung Việt, Nguyễn Xuân Kỳ và Đỗ Văn Nhung, Lịch sử Campuchia,Nxb Giáo Dục, 1982.
(4) Vương Hồng Sến, Tự vị tiếng Việt miền Nam,Nxb Văn hóa, 1993, tr.360 - 362.
(5) Nguyễn Ngọc Bích, La Plaine des Joncs,Sài Gòn, 1983, Tài liệu Bộ Thủy lợi số 1065. Ủy ban quốc gia sông Mê kông.
(6) Lê Huy Bá, Những vấn đề đất phèn Nam bộ,Nxb Tp. HCM, 1982, tr.19.
(7) Đặng Kim Sơn, Các hệ thống sản xuất nông nghiệp ở đồng bằng sông Cửu Long,Sở VHTT Long An, 1983, tr.125.