Vùng đất Kim Cốc – Mai Lâm qua thơ Lê Thánh Tông
Sau đây là những bài thơ chữ Hán mà Lê Thánh Tông để lại:
Dạ nhị canh nhập trầm hảo cảng thi
(Thập nhất nguyệt nhị thập lục nhật)
Phiên âm:
Trầm Hào cảng khẩu nộn triều sinh
Khảm khảm khai truyền tiến cổ minh
Thiên cự nhiệt lâm quang tự trú
Vạn phu tẩu dạ tịch vô thanh
Quán vương đồ viễn tông thiên kế
Liệt sĩ tư thuỳ trúc bạch danh
Niên thiếu hiệp sơn siêu hải khí
Trường hồng hạo hạo cửu tiêu minh
Dịch nghĩa:
Bài thơ làm khoảng canh hai lúc tiến vào cảng Trầm Hào(ngày 26 tháng 11)
Nơi cửa biển Trầm Hào, thuỷ triều vừa dâng,
Thùng thùng trống giục thuyền tiến vào cảng,
Nhìn ngọn đuốc đốt trong rừng, sáng tựa ban ngày.
Muôn quân bước trong đêm, tinh không tiếng động.
Nhà vua tính kế lâu dài cho tông miếu,
Tráng sĩ muốn lưu danh trong sử xanh.
Tuổi trẻ với trí lớn cắp núi vượt qua biển rộng,
Muốn làm cầu vồng vắt ngang trời rực sáng huy hoàng.
Dịch thơ
Trầm Hào cửa biển triều sai dựng
Trống giục binh thuyền cập bến nhanh
Rừng tựa ban ngày bừng đuốc sáng
Quân không tiếng động vượt đêm thanh
Nhà vua diệu kế vì tông miếu
Tướng sĩ chờ tên chép sử xanh
Cắp núi qua khơi ngời khí trẻ
Cầu vồng chín đợt sáng lung linh…
(Ngô Linh Ngọc dịch)
Dạ nhập Xước Cảng thi
(Thập nhất nhật nguyệt nhị thập bát nhật)
Phiên âm:
Xước Cảng đồng long báo nhị canh
Lệnh truyền lục tốt phạt trùng doanh
Đồi Ôi sơn thượng tình lam át
Thánh nữ từ tiền tịch thuỷ sinh
Giáp sĩ minh đăng lâm lộc khứ
Lâu thuyền quá cổ dạ trung hành
Quân vương giá ngự tư quần sách
Tế tế tài năng dỉ vựng chinh.
Dịch nghĩa:
Bài thơ đêm tiến vào Xước Cảng(ngày 28 tháng 11)
Đêm Xước Cảng lúc đồng hồ vừa báo canh hai
Lệnh truyền sáu quân nhổ trại lên đường.
Trên núi Đồi Ôi khí núi che phủ,
Trước đền thánh nữ nước triều đang dâng.
Quân sĩ đốt đuốc tiến tới ven rừng,
Thuyền lầu nổi tiếng trống lướt trong đêm tối.
Nhà vua thân đi đánh dẹp, có biết bao người giúp kế sách,
Nhân tài đông đúc giúp cho việc quân.
Dịch thơ:
Cảnh Xước canh hai mới điểm giờ
Sáu quân nhổ trại lệnh liền đưa
Trước đền Thánh Nữ triều dâng sớm
Trên ngọn Đồi Ôi khói tỏ mờ
Nổi trống, thuyền binh đêm tối vượt
Băng rừng, tướng sĩ đuốc hồng khua
Vua đi đánh giặc bao tài tuấn
Giúp dập binh cơ trí dũng thừa.
(Ngô Ngọc Linh dịch)
Xước Cảng trung thi
(Xước Cảng vô khúc xứ, luận chí sổ bách dư lý)
Phiên âm:
Cốt cốt đào đầu thuỷ phách thiên
Cảng trung nhất lộ trực như huyền
Lâu thuyền hệ lãm hải nhai hiểu
Ngủ dạ tinh hà ảnh đảo huyền
Dịch nghĩa:
Bài thơ làm trong Cảng Xước
(Cảng Xước thẳng tắp, mênh mông đến hơn mấy trăm dặm)
Nước vỗ vào nền trời, ngọn sóng réo ào ào
Trong cảng một con đường thẳng như kẻ chỉ
Buổi sớm thuyền lầu thả neo nơi góc biển
Nước in sao trời suốt cả năm canh.
(Mai Xuân Hải dịch nghĩa)
Dịch thơ:
Sóng gào vỗ bầu không khí
Đường như kẻ chỉ, vắt trong cảng dài
Thuyền neo góc biển sớm mai
Năm canh lộng ánh sao trời ngược soi…
(Ngô Linh Ngọc dịch thơ)
Du hải môn lữ thứ
Phiên âm:
Triều tông nhất phái thuỷ quyên quyên
Hạo diều hông đào tiếp hải yên
Nguyệt áng hà âm thiền ảnh lộng
ChuBàn xuân não ngọc sinh yên
Bà sa sái ngạn ngư thôn võng
Thiều đệ nghênh phong cổ khách thuyền
Nhật mộ ba tâm kiều thủ vọng
Bồng lai chỉ xích tịch dương biên.
Dịch nghĩa:
Nghỉ lại ở cửa biển Du
Một dòng sông nước cuồn cuộn đổ ra biển
Sóng lớn mênh mông liền một dải sát tận bờ
Mặt sông Nguyệt áng ban đêm, bóng trăng lồng lộng,
Mùa xuân Chu Bàn ấm áp, ngọc toả hơi lam.
Rải rác trên bờ là lưới phơi của xóm chài,
Xa xa đón gió là thuyền bè của thương khách.
Chiều tà giữa vùng sóng nước nghể cổ trông vời,
Chốn Bồng Lai gần trong gang tấc, bên phía mặt trời lặn.
(Mai Hải dịch nghĩa)
Dịch thơ
Một dòng vun vút lao ra biển
Sóng lớn muôn tầm lẫn ráng khơi
Nguyệt áng, sông nhoè, trăng lộng bóng
Chu Bàn, xuân ấm, ngọc phun hơi
Lưới chài rải rác phơi đầu bãi
Thuyền khách vời xa đón gió trời
Ác lặn giữa dòng quay ngắm cảnh
Non bồng gang tấc, phía chiều rơi.
(Ngô Linh Ngọc dịch thơ)
Qua những bài thơ chữ Hán trên, chúng ta thấy Lê Thánh Tông không những mô tả được khí thế hào hùng sôi động của các đoàn quân chinh phạt phương Nam trên các cảng sông, cảng biển xung quanh vùng Kim Cốc – Mai Lâm mà còn mô tả được cảnh quan đẹp đẽ, giàu sức sống ở nơi đây với cảnh sông nước, núi non, biển trời mênh mông, lồng lộng và cảnh “lưới chài rải rác”, “thuyền khách vời xa” thật là sinh động.
Ngoài các bài thơ chữ Hán viết về các cảng sông, cảng biển ở vùng đất xung quanh Kim Cốc – Mai Lâm, Lê Thánh Tông còn để lại một bài thơ Nôm rất đặc sắc về Kênh Trầm, đó là:
Đồn rằng huyện Ngọc có kênh Trầm
Tuy hẹp le vui hết mấy rằm
Gò nổi xương trâu rêu lún phún
Bãi lè lưỡi Bạng bột lăn tăn
Chan chan thuyền khách sào chưa nhổ
Có kẻ kéo khan năm bảy lúc
Chờ cho thấy nước bõ đêm nằm
(Trích trong Hồng Đức Quốc âm thi tập, NXB Văn học, Hà Nội, 1982)
Ở bài thơ Nôm này, Lê Thánh Tông đã cho biết cảnh đánh bắt cá và cảnh “ Thuyền khách chan chan” (tức thuyền buôn ở nơi xa đến) trên dòng kênh Trầm.
Chỉ với những trích dẫn trên, chúng ta có thể có một cái nhìn khái quát về vùng đất Kim Cốc – Mai Lâm với Kênh Trầm và các cảng sông, cảng biển kề cận (như Cảng Xước, cảng Trầm hay còn gọi là Trầm Mông Cảng, hay Hoà Lạc Cảng và Cảng Du, tức Du Độ, tức cửa Lạch Bạng thông liền với biển như ta thấy bây giờ) rằng đây chính là vùng đất, hay không gian hội tụ, tập kết của các đoàn quân đi chinh phục phương Nam trước khi vào Nghệ An (của các triều đại phong kiến từ Tiền Lê – Lý - Trần – Lê). Do đặc diểm của vị trí địa lý hết sức đặc biệt ở khu vực Nam Thanh, Bắc Nghệ - nơi rất gần cửa biển, lại có kênh – sông nối với Nghệ An và ra ngoài Bắc, cho nên vùng đất Kim Cốc – Mai Lâm là một vùng đất khép bởi có nhiều núi non che chắn, bao bọc xung quanh. Do đó, về quân sự, đây là nơi rất lợi hại cho cả việc tấn công, lẫn phòng thủ và rút lui một cách rất cơ động. Trong vòng 5 – 7 thế kỷ từ TK X đến TK XVII), trên con đường Nam tiến, vùng đất Kim Cốc – Mai Lâm không những chỉ đưa đón các đoàn quân lại qua mà còn là nơi đồn trú khi nghỉ ngơi và chỉnh đốn quân ngũ.
Như vậy, trong suốt cả nghìn năm phong kiến (chủ yếu là từ thế kỷ X đến thế kỷ XV), khu vực Kim Cốc – Mai Lâm nói hẹp và xung quanh gồm các làng, xã của tổng Duyên La - Tuần La, huyện Ngọc Sơn cũ (mà nay được gọi là vùng đất Nam Thành, Bắc Nghệ - ở phía Nam Tĩnh Gia) là vùng đất cửa ngõ địa đầu phía Nam của xứ Thanh có vị trí quan trọng chủ yếu là về mặt quân sự.
Hiện nay, Kim Cốc – Mai Lâm lại thuộc địa bàn khu kinh tế Nghi Sơn. Và trên đà phát triển của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, vùng đất quê hương của Đông các đại học sĩ Lê Nhân Quý chắc chắn sẽ còn thay đổi nhiều hơn nữa trong chiều hướng mỗi ngày một giàu, đẹp hơn.