Vụ Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây Nam Bộ
“Trong các bức điện vừa qua, tôi đã lấy làm hân hạnh trình bày với Ngài về các việc chuẩn bị cho cuộc biểu dương lực lượng đã trở thành cần thiết đối với ba tỉnh Vĩnh Long, Châu Đốc và Hà Tiên, để chiếm lấy các tỉnh này.
Tôi đợi tới mùa mưa để nước trong các con rạch dâng cao, nhờ đó các pháo thuyền nhỏ của chúng ta có thể di chuyển được và trời cũng bớt nóng một chút, để binh lính của chúng ta không quá mệt nhọc trong trường hợp phải đánh nhau kịch liệt.
Giờ phút thuận lợi cuối cùng rồi cũng đã tới, Mặt khác nhiều việc cũng đã xảy ra và củng cố thêm quyết định của tôi. Tôi đã có bằng chứng, qua lời khai của các hương chức An Nam trong hàng ngũ của Puo Kombô đã bị bắt và lúc này đang bị cầm tù, cũng như qua các giấy tờ tịch thu được trên người chúng, là tên cầm đầu các kẻ nổi loạn này được tỉnh Châu Đốc tiếp tế về người và vũ khí. Ngoài ra, tầu Alarme của người Hoa ở cửa sông Comao (sic) dẫn tới Bax-Huyen (sic), và chiếc ghe chở một lượng thuốc súng để tiếp tế cho các tỉnh An Nam đã bị phá huỷ. Do đó, tôi nghĩ là không nên chờ đợi lâu hơn nữa. Và các việc chuẩn bị đã xong, tôi rời Sài Gòn ngày 18 trong tháng vào lúc ba giờ chiều, trên tàu hệ thống Ondine, để đích thân chỉ huy các cuộc tấn công vào các thành trì của Vĩnh Long, Châu Đốc, Hà Tiên và chiếm lấy bảo vệ các tỉnh lỵ của ba tỉnh.
Tôi tới Mỹ Tho ngày 19 tôi thấy 16 pháo thuyền được gửi đi từ Sài Gòn hôm trước đều đã tập hợp tại đây. Vừa tới nơi, tôi liền ra lệnh cho lính lên tầu. Tôi họp các đơn vị trưởng và các chỉ huy các pháo thuyền để cho họ hay về kế hoạch tấn công của tôi và tôi ra lệnh chuẩn bị khởi hành vào ban đêm.
Năm giờ, quân lính đã lên cả trên tầu. Số lính này gồm có 800 thủy lục quân, 150 tay súng trường thuộc đại đội đổ bộ của Duperre’, 50 lính công binh và pháo binh. Các lực lượng này được đặt dưới sự chỉ huy của đại tá Reboul, pháo binh do chỉ huy trưởng Guillermy điều khiển còn công binh dưới quyền chỉ huy của tiểu đoàn trưởng Bovet. Đạo quân viễn chinh này có thêm 200 phu để khuân vác hành lý, dụng cụ của công binh, pháo binh và cứu thương. Ngoài ra còn có 400 dân quân các tỉnh của chúng ta, do các viên thanh tra điều khiển và được đặt dưới quyền của Giám đốc Nội vụ. Các chiếc ghe chở đám dân quân này do các pháo thuyền kéo.
Trong lúc các pháo thuyền lớn cho đổ bộ lực lượng chủ yếu, thì bốn pháo thuyền nhỏ chạy hết tốc lực vào trong lạch của thành và đứng giàn ở phía bắc của con rạch Long Hồ, sẵn sàng cho đổ bộ tất cả các dân quân được một lực lượng bộ binh lớn yểm trợ, ba pháo thuyền nhỏ khác được chạy vào rạch Long Hồ và tầu Ondine tới thả neo ở cửa con rạch này, cách một trong các pháo đài của thành khoảng 100m.
Tôi tức khắc gửi một trong số các sĩ quan tuỳ tùng của tôi tới đòi viên Tổng đốc phải trao thành cho tôi một cách vô điều kiện, nếu không tôi sẽ nổ súng. Viên sĩ quan này có phận sự đưa cho tổng đốc bức thư. Tôi xin gửi Ngài bản sao bức thư này.
Chỉ trong phút chốc, quân lính từ pháo thuyền lớn đã đổ bộ xong, các pháo thuyền này bèn chạy tới án ngữ trước thành. Thành lúc này đã bị các tầu của ta bao vây mọi bề và ba phía đều có các lực lượng mạnh của ta bao vây. Mọi kháng cự đều vô ích. Dân chúng nhìn chúng tôi đi qua không chút sợ sệt hay ngỡ ngàng. Người buôn bán đứng im tại chỗ, không một cử động nào nơi đám người mà mấy năm trước đây đã bỏ lại tất cả khi chúng ta tới gần. Cũng vậy hai người cầm đầu tỉnh Vĩnh Long, Phan Thanh Giản, từng là Thị Lang của triều đình Huế, và tổng đốc ba tỉnh miền Tây, lên tầu Ondine đầu hàng, trao lại trong tay tôi quyền hành mà họ nhận được từ vua Tự Đức và sẵn sàng giúp làm cho việc chuyển quyền hành từ tay nhà nước An Nam sang tay người Pháp được dễ dàng dưới sự tán đồng của quần chúng.
Hai bên thỏa thuận là quân Pháp sã tiến vào thành và làm chủ thành; binh lính và dân quân thuộc triều đình Huế sẽ bị tước vũ khí và thải hồi, mọi tài sản quốc gia, vũ khí và đạn dược chứa chất trong các kho trong thành sẽ được trao lại cho chúng tôi.
Để không cho các quan ở Châu Đốc và cấp thấp hơn tại các huyện phủ chính yếu có thời gian chuẩn bị chạy trốn hay xúi bẩy dân chúng chống lại chúng ta, tôi cho các pháo thuyền nhỏ chở một số phân đội gồm binh lính và dân quân chạy tới Sa Đéc, vốn là một khu chợ chính là một khu trung tâm giàu nhất và đông dân nhất của ba tỉnh phía Nam, và tới Dui Minh, huyện lỵ sôi động nhất của tỉnh Vĩnh Long, được ghi nhận là nơi trú ẩn của một số tay gây rối chống lại sự thống trị của chúng ta, để bắt các nơi này phải nhìn nhận quyền hành của Pháp. Kế đó, tôi phái các pháo thuyền Alarme, Fusée, Hallebarde, Bourdais, Flamberge, Fleuret, Bien Hoa với 415 binh lính Châu Âu và 300 dân quân phu phen dưới sự điều khiển của thuyền trưởng Galey cấp tốc trực chỉ Châu Đốc. Các đội quân được đặt dưới quyền chỉ huy đặc biệt của tiểu đoàn trưởng Domange.
Thuyền trưởng Galey được lệnh cho tầu bỏ neo càng gần thành càng tốt, đổ quân lên đất liền, tấn công thành bằng đường bộ và đường thuỷ, nếu thành không đầu hàng tức khắc và vô điều kiện.
Đoàn tầu này chuẩn bị nhổ neo rời Vĩnh Long hôm thứ sáu 21.6 vào năm giờ sáng với tất cả những gì cần thiết cho một cuộc đổ bộ và tấn công kịch liệt.
Tôi còn ở lại Vĩnh Long ít giờ để giải quyết với Phan Thanh Giản những việc hệ trọng nhất; việc giải quyết dứt khoát một số vấn đề phụ thuộc khác được hoãn lại vào lúc tôi trở lại [...]
Tôi tới Châu Đốc ngang qua ngả Sa Đéc. Tại đây tôi được biết, mà không mấy ngạc nhiên, là dân chúng đã tiếp đón chúng ta với những biểu hiện của lòng tin tưởng, thiện cảm và nhanh nhẹn đáp ứng mọi ước vọng của chúng ta và cung cấp cho chúng ta các thứ cần thiết. Đi tiếp, tôi bỏ neo tại Châu Đốc vào hồi ba giờ. Đội thuyền do Galey chỉ huy đã tới vào ban đêm, trước đó tầu này đã bắt được một chiếc ghe chở giám đốc Hà Tiên tại kinh Viam Nao.
Bất ngờ trước sự xuất hiện của một lực lượng áp đảo mà không có báo hiệu nào trước, tổng đốc tỉnh Châu Đốc cảm thấy không thể nào kháng cự nổi. đã tức khắc lên tầu Bien Hoa để đầu hàng và chấp nhận mọi điều kiện chúng tôi đưa ra. Ít phút sau thành trì từng chiếm một vị trí quan trọng ở cửa con kinh Hà Tiên và từ lâu đã từng là nơi trú ẩn của nhiều kẻ gây rắc rối, các kho, đồn trú quân đều mở cửa và tất cả vũ khí, đạn dược, các dự trữ của một trong những chìa khoá của con kênh Hà Tiên đã nằm trong tay chúng ta.
Khi tới Châu Đốc, tôi thấy mọi sự tiến triển một cách nhanh chóng hơn tôi đã tưởng và sự có mặt của Tổng đốc Hà Tiên trên tầu Bien Hoa đã làm tiêu tan những nghi ngại cuối cùng về kết quả của cuộc viễn chinh. Tôi tiếp tại tầu của tôi hai Tổng đốc của hai tỉnh, đọc cho họ hay về ý định của tôi và yêu cầu họ giúp trấn an dân chúng và nhìn nhận quyền của chúng ta ở mọi nơi. Và hôm sau, Viên Tổng đốc Hà Tiên phải cùng với đội thuyền viễn chinh tôi cử đi để chiếm lấy điểm quan trọng này và nhận trách nhiệm làm cho việc tiến quân được dễ dàng và mở các cửa cho chúng ta. Chìa khoá thứ hai của con kênh Hà Tiên và con đường giao thông chính giữa vịnh Siam và Cao Miên đã được trao vào tay chúng ta ngày 24 tháng 6.
Như vậy, thưa Ngài Bộ trưởng, cuộc viễn chinh được thực hiện một cách nhanh chóng và dứt khoát đã cho phép chúng ta trong vòng 5 ngày và không khó khăn gì làm chủ được ba tỉnh tốt đẹp với một lãnh thổ rộng lớn và phong phú không kém những gì chúng ta đã chiếm được. Dân các vùng này hiền hòa, cần cù, thông minh và cũng dễ dàng tiếp nhận ảnh hưởng của chúng ta như dân ba tỉnh của chúng ta.
Sự chinh phục hòa bình này đã đưa chúng ta tới biên giới tự nhiên, đặt chúng ta ở vào một thế mạnh để thống trị vịnh Siam và đặt chúng ta trong những điều kiện bảo vệ tốt đẹp nhất. Nó cho phép chúng ta thực hiện mọi sự cải tiến cần thiết để phát triển sự phong phú của các vùng này mà không cần phải e ngại sự quấy rầy của các người láng giềng ưa phá phách và làm sinh sôi nảy nở các mầm mống của sự phì nhiêu vô tận của đất đai và của dòng nước tuyệt vời, với sự tiếp tay của những người dân quan tâm tới thành quả của cái mới đem lại cho họ sự sung túc, nhàn hạ và hạnh phúc. Tôi hi vọng là chúng ta sẽ không còn bị quấy rầy trong công trình này, công trình chắc chắn sẽ thành công và hứa hẹn nước Pháp chẳng bao lâu nữa sẽ làm chủ một cách yên ổn có hiệu quả một trong những thuộc địa đẹp nhất thế giới”.
________________
(Phan Thị Minh Lễ và Pierre Ph. Chanfreau, Phan Thanh Gian, patriote et précurseur du Vietnam moderne, ses dernieres années 1862-1867, L’ Harmattan, 2002, trg. 192-198).
Nguồn: Xưa & nay, số 138, 4/ 2003.








