Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ tư, 28/09/2011 20:26 (GMT+7)

Vụ bức tử Trạng nguyên Nguyễn Quang Bật

Tháng 8, vua ra lệnh dựng bia tiến sĩ, Lễ Bộ thượng thư Quách Đình Bảo tâu:

“… xin đổi trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa thành tiến sĩ cập đệ, chánh bảng thành tiến sĩ xuất thân, phụ bảng thành đồng tiến sĩ xuất thân để hợp với quy chế ngày nay. Vua y tờ tâu, sai Công bộ khởi công dựng tạc bia” (2).

Tuy nhiên những quy định mới chỉ dùng trong văn tự còn trong đời thường các từ “trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa” vẫn thông dụng.

Ngày nay thăm Văn miếu Quốc Tử Giám Hà Nội, qua hàng Bia Tiến Sĩ, lại qua Văn Miếu rồi vào Hậu Đường nhà Thái Học, ta được đọc bảng danh sách 56 Trạng nguyên của những triều đại xưa. Bản danh sách đó ở những dòng thứ 16 có ghi “Nguyễn Quang Bật, xã Bình Ngô, huyện Gia Định”.

Trạng nguyên Nguyễn Quang Bật may mắn được phò tá một đấng minh quân vào một thời hiển hách của đất nước. Ông và Đông Các (3), là một trong 28 người của Hội Tao Đàn (4) và làm quan đến chức Đô Ngự Sử (5); trải qua 3 triều: Lê Thánh Tông (1460 - 1497 - từ năm 1484) đến Lê Hiến Tông (1497 - 1504) và Lê Túc Tông (1504).

Nhưng Túc Tông yểu mệnh, tháng 6 lên ngôi thì tháng 12 ông mất khi mới 17 tuổi, Lê Uy Mục kế vị lấy niên hiệu là Đoan Khánh. Năm sau (Ất Sửu - 1505) là năm Đoan Khánh thứ nhất.

Mẹ sinh ra Uy Mục chỉ là tỳ thiếp lại mất sớm, bà Kính phi không có con trai, nhận nuôi làm con mình và có ý muốn lập Uy Mục làm vua. Khi Hiến Tông nằm giường bệnh, sợ các đại thần không theo, bà Kinh phi mang vàng bạc đút lót, nhưng Lễ Bộ thượng thư (6) Đàm Văn lễ không nhận. Đến khi Lê Hiến Tông ốm nặng, hai ông Nguyễn Quang Bật và Đàm Văn Lễ nhận di chiếu của tiên vương phò Thái tử Thuần (tức Lê Túc Tông) nối ngôi. Uy Mục rất căm giận hai ông Đàm và Nguyễn, khi Lê Hiến Tông mất không chịu giúp mình thay đổi di chiếu nên quyết trả thù. Đại Việt sử kýchép:

“Vua (Uy Mục) căm giận lắm. Đến đây, dùng mưu của Khương Chủng, Nguyễn Nhữ Vi biến hai người làm Thừa Tuyên xứ Quảng Nam. Khi họ đến sông lớn huyện Chân Phúc, vua sai người đuổi theo bắt phải tự tự. Hai người khi sắp gieo mình xuống nước, ngâm thơ quốc ngữ rồi mới mất. Sau đình thần trong bụng ai cũng biết là hai người chết không đáng tội, can vua, vua đổ tội cho Nhữ Vi rồi giết y”.

(ĐVSK TT Bản kỷ thực lục, quyển XIV kỷ nhà Lê, Nxb KHXH, HN, 1993, tập III, tr 46).

Quốc sử chỉ viết đôi dòng nhưng đã cho thấy Hoàng đế đương triều là kẻ thủ ác, tâm địa phản trắc và tên đồng phạm Nhữ Vi là quân tốt “thí”. Để hiểu rõ sự kiện trên có thể tìm thêm các tư liệu trong thư tịch cũng như trong dân gian.

Văn bia ở chùa Hòa Lạc ở huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên (nay là chùa của thôn Hành Lạc, thị trấn Như Quỳnh - Hà Nội). Bia này ở bên trái hiên nhà bái đường, nhưng gần đây người ta dựng chính điện rộng lớn hơn và quay lưng lại hướng cũ. Vì vậy bia hiện ở phía sau chùa. Bia có tuổi thọ hơn 500 năm, nhưng nhờ nét khắc rất tinh xảo nên chỉ một số chữ không đọc được.

Cuối bài văn bia này viết:

Hán Việt: “Đoan Khánh nguyên niên, Ất Sửu ngũ nguyệt lục nhật, Canh Dần Mão thời thọ chung, hưởng linh thất thập nhất. Bản niên bát nguyệt nhị thập nhật Nhâm Thân táng ư bản xã Nguyễn xứ điền…”.

Dịch nghĩa: Năm Đoan Khánh thứ nhất, ơn vua khoa Giáp Thìn đỗ Tiến sĩ Cập Đệ, Hữu thị lang Bộ Lại Trung Trinh Đại Phu Khuông Thiếu Doãn, Nguyễn Quang Bật người ở Gia Định… cẩn trọng viết…

Như vậy văn bia này do Trạng nguyên Nguyễn Quang Bật soạn, đồng thời cũng cho thấy từ triều trước, ông Nguyễn đã được phong tước Trung Trinh Đại Phu Khuông Thiếu Doãn (7), khi Uy Mục lên ngôi cũng không xóa bỏ tước hiệu ấy, chỉ giáng ông từ Đô Ngự Sử (bộ trưởng) xuống Hữu thị lang (thứ trưởng) và chuyển sang Bộ Lại (8).

Bài văn bia ca ngợi một vị Đô Thống (quan võ) người làng: “thường đem tiền của bổng lộc gia tài chu cấp cho thân thích hàng xóm, xây cầu sông Nghĩa Trụ 9 nhịp và ngôi chùa 32 gian…”.

Một đoạn khác viết:

Hán Việt: “Đoan Khánh nguyên niên, Ất Sửu ngũ nguyệt lục nhật, Canh Dần Mão thời thọ chung, hưởng linh thấp thập nhất. Bản niên bát nguyệt nhị thập nhật Nhâm Thân táng ư bản xã Nguyễn xứ điền…”.

Dịch nghĩa: Năm Đoan Khánh thứ nhất, ngày sáu tháng năm Ất Sửu, ngày Canh Dần giờ Mão cụ mất, hưởng thọ bẩy mươi mốt tuổi. Cũng năm ấy ngày Nhâm Thân hai mươi tháng tám táng cụ ở ruộng xứ Nguyễn xã ta…

Những dòng viết này cho thấy ông Nguyễn vẫn còn có mặt ở Thăng Long sau “ngày Nhâm Thân 20 tháng 8” “năm Ất Sửu” (1505) để viết bài văn bia này.

Như vậy dù rất khẩn trương đi nữa, việc ông bị “biếm” đi Quảng Nam cũng chỉ có thể diễn ra vào mùa đông năm ấy.

Điều kiện giao thông của 500 năm trước, đường sá, phương tiện vô cùng vất vả; từ Thăng Long đến Quảng Nam “đường xa ngàn dặm” (hơn 700 km) tất phải đi hàng tháng trời nên đến đầu năm sau mới tới được “cửa sông lớn” là nơi vụ bức tử diễn ra. Vì thế sự việc bi thảm cuối đời ông Nguyễn chắc chắn vào đầu năm Bính Dần - 1506.

Theo sách Người Kinh Bắc - Đối đáp giỏicủa Phạm Thuận Thành, trong mục “Ông Trạng bị trầm hà” tác giả viết:

“… Ông làm thơ tuyệt mệnh của mình trước khi chết:

Trời, trời xanh, nước, nước xanh

Ai đem người ngọc đến Nam Ninh

Nào chẳng Liễu Nghị đi đâu tá

Sao chẳng đưa thư tới Động Đình?

(tr. 42 - Nxb Văn hóa dân tộc, in năm 2001)

Bài thơ trên được truyền lại, tất phải do người đã chứng kiến những giây phút cuối cùng của quan Ngự Sử; không những thế họ phải là người có học thức. Xem vậy, chuyến đi Quảng Nam đúng là một chuyến công vụ như quốc sử đã ghi “biếm hai người làm Thừa Tuyên sứ” và vào phút cuối đời bên ông Nguyễn không chỉ là những “sát thủ”.

Tìm đọc bản Gia Phảchữ Hán của họ Đỗ ở Bình Ngô - Đại Mão (9) viết năm Tự Đức thứ 6 (Quý Sửu - 1853), hay bản phụng sao tục (chép lại và viết tiếp) cũng bằng chữ Hán viết năm Ất Tỵ đời Thành Thái (1905) thì đoạn viết về nguồn gốc dòng họ này như sau:

Hán Việt: “Giảng Dụ Tướng Công vi thủy tổ tiền thử tắc thế viễn ngôn yên bất tri kỳ sở tự, nãi giả Bình Ngô cố lão, tiền hữu Thông Nho hậu hữu Kinh Môn Tri Phủ, thường vị ngã tộc đàm tự, hữu viết ngã chi phái lý hãn tương truyền thị bản ấp. TRạng nguyên tự Quang Bật Nguyễn tướng công, chi duệ dã. Công đăng sĩ sơ dự tao đàn, hậu thụ cố mệnh, ủng lập Anh Tông, Uy Mục đế hám hám bất lập kỷ thoán công vu Nam Ninh (sử ký thoán vu Quảng Nam an trí) công đại phẫn khuê tâm đầu thạch thệ viết: “kỳ thị tử tôn, hậu hữu sĩ vu bản triều giả, hữu như thử thạch”. Nhân ngâm quốc ngữ dĩ tự khiển, thi viết: Trời xanh xanh nước xanh xanh, ai đem người ngọc đến Nam Ninh, nào chàng Liễu Nghị đi đâu tá, sao chẳng đưa thư tới Động Đình. Tự phó hải một, thị hậu húy công chi thệ, cải vi Đỗ tức Giảng Dụ công dĩ hất vu kim dã…”.

Từ bản chữ Hán này, năm 1948 họ Đỗ đã dịch ra chữ quốc ngữ và viết tiếp.

Đoạn trên được dịch nghĩa như sau:

Giảng Dụ Tướng công là Thủy Tổ họ ta, còn về trước thất truyền không biết từ đâu. Gần đây có các cố lão ở Bình Ngô, trước là cụ Thông Nho, sau là cụ Tri Phủ Kinh Môn, những người thường vì họ ta mà đàm luận rằng: Người làng vẫn tương truyền họ ta là dòng dõi cụ Trạng nguyên Nguyễn Quang Bật, Nguyễn tướng công. Cụ làm quan có chân trong Tao Đàn, chịu mệnh tiên đế lập vua Anh Tông. Sau khi vua Uy Mục lên ngôi, rất giận trước đã không lập mình bèn đầy cụ đến Nam Ninh (sử chép đưa đến Quảng Nam an trí). Cụ bị oan, tức giận lắm, ném hòn đá xuống nước và thề rằng: “con cháu nhà về sau ai làm quan với triều này (nhà Lê) thì số phận cũng như hòn đá này”, nhân cụ ngâm mấy câu thơ bằng quốc âm cho khuây lòng. Thơ rằng: Trời xanh xanh, nước xanh xanh, ai đem người ngọc đến Nam Ninh, nào chàng Liễu Nghị đi đâu tá, sao chẳng đưa thư tới Động Đình (10) rồi nhảy xuống nước tự vẫn. Từ đó con cháu kiêng lời thề của cụ đổi sang họ Đỗ tức từ cụ Giảng Dụ đến ngày nay…

Những dòng viết trên hầu hết thống nhất với Đại Việt sử ký toàn thưvề cuộc đời và kết cục bi thảm của Trạng nguyên Nguyễn Quang Bật tuy có lầm Túc Tông (1505) với Anh Tông (1556 - 1573) nhưng cho ta rõ hơn tình tiết lúc ông bị bức tử.

Theo sách Trùng Đính Thiên Nam Danh Địa(đính chính về những ngôi đất nổi tiếng ở nước Nam), sách nói về phong thủy, in năm Ất Tỵ (1905) đời Thành Thái, hiệu đính sách của nhà phong thủy nước ta từ hơn 300 năm trước. Ông họ Lê tên hiệu Hòa Chính Tử, viết năm Chính Hòa thứ 3 (Lê Hy Tông - Trịnh Căn - Nhâm Tuất - 1682), gồm 76 chương.

Ở mục có đầu đề Trạng nguyên địa cộng thập bát (18 ngôi đất phát Trạng nguyên), về mỗi ngôi đều nói rõ địa điểm, hình dáng, tên người được đất và lần lượt nêu ra các ngôi đất của trạng nguyên, bảng nhãn: Nguyễn Trực, Vũ Duệ, Nguyễn Quang Bật, Hoàng Nghĩa Phú, Nguyễn Giản Thanh, Mạc Đĩnh Chi, Lương Thế Vinh, Dương Phúc Tư, Giáp Hải…

Những dòng viết về Trạng nguyên Nguyễn Quang Bật như sau:

Hán Việt: “Nguyễn Quang Bật phụ phần tại bản quán Gia Định huyện (kim cải Gia Bình), Bình Ngô xã. Bình dương hóa hình nhất thân phiên tác thành quách, tứ vi can hạc. Vũ thủy kiến hành long, thế như bàn long, đái tinh phong. Đãn hiềm khách thủy dao long đầu. Ư Hồng Đức thập ngũ niên trúng, sĩ chí Đô Ngự Sử phi tai nịch tử”.

Dịch nghĩa: Mộ thân phụ Nguyễn Quang Bật ở xã Bình Ngô, huyện Gia Định (nay đổi là Gia Bình), hình biển lớn phẳng lặng, một khi trở mình thành thành quách, bốn bề khô cạn, khi trời mưa nước lên trông như rồng đi, thế như cuộn khúc, đội tinh phong. Chỉ hiềm một nỗi nước bên ngoài làm lay động đầu rồng. Nguyễn Quang Bật đỗ (Trạng Nguyên) năm Hồng Đức thứ 15 làm quan đến Đô Ngự Sử bị tai bay vạ gió mà chết chìm.

(Đỗ Tuấn Anh dịch)

Những dòng viết trên cũng chính là hiện trạng thế đất của mộ Tổ họ Đỗ.

ĐSVKTT chép: Năm Đoan Khánh thứ 3 (1507) nhà Minh sai chánh sứ Thẩm Đào, phó sứ Hứa Thiên Tích mang chiếu thư sang phong Uy Mục làm An Nam Quốc Vương. Thiên Tích có câu thơ rằng: An Nam tứ bách vận vưu trường, Thiên ý như hà giáng quỷ vương (Vận nước Nam còn những 400 năm, sao trời lại giáng xuống một vua quỷ).

Việt Nam Sử Lượccủa Trần Trọng Kim viết:

“… đã làm diều bạo ngược, lại say đắm tửu sắc; đêm nào cũng cùng với cung nhân uống rượu, rồi đến khi say thì giết đi. Có khi bắt quân sĩ lấy gậy đánh nhau để làm trò chơi. Tính đã hung ác, mà lại hay phản trắc. Cho nên sứ Tàu sang làm thơ gọi Uy Mục là Quỷ vương”.

(VNSL Trần Trọng Kim - phần 5)

ở ngôi được 5 năm, Uy Mục bị đuổi ráo riết cùng đường phải uống thuốc độc tự tử (tháng 11 năm Kỷ Tỵ - 1509).

Ngày mồng 4 tháng 12 Giản Tu công (tức Tương Dực Đế) lên ngôi đổi niên hiệu là Hồng Thuận. Nhà vua thấy rõ ông Nguyễn bị xử oan nên truy phong ông tước Bá, ban cờ “Trung Trạng Nguyên” và lệnh cho dân làng lập miếu thờ.

Nhưng ít lâu sau đã đổi khác. Nhà sử học Ngô Sĩ Liên viết:

“… Vua buổi đầu lên ngôi, ban hành giáo hóa, thận trọng hình phạt, cũng đáng coi là có công nghiệp. Song chơi bời vô độ, xây dựng liên miên, dân nghèo thất nghiệp, trộm cướp nổi lên, dẫn đến nguy vong là bởi ở đấy”.

ĐVSKTT (Bản kỷ thực lục Quyển 5a)

Người đời gọi Tương Dực là “vua lợn” vì năm Hồng Thuận thứ 5 (Quý Dậu - 1513) nhà Minh sai chánh sứ là Trạm Nhược Thủy, phó sứ là Phan Hy Tăng sang phong cho Tương Dực là An Nam Quốc Vương. Hy Tăng trông thấy vua, bảo Nhược Thủy: “Quốc vương An Nam mặt thì đẹp mà người thì lại lệch, tính háo dâm, là vua lợn, loạn vong sẽ không lâu đâu”.

Tương Dực Đế ở ngôi 8 năm, thọ 24 tuổi, bị quyền thần Trịnh Duy Sản giết. Tiếp đó Mạc Đăng Dung nổi lên, các quyền thần đánh giết lẫn nhau.

Nay về thăm quê hương ông (xã An Bình, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) ta bắp gặp lăng tưởng niệm Trạng nguyên Nguyễn Quang Bật. Trong lăng còn lưu giữ một bài vị cổ bằng đá, bài vị viết:

Dịch nghĩa: Bài vị của cụ Nguyễn, đỗ Trạng nguyên khoa Giáp Thìn đời Lê Hồng Đức, chức Ngự Sử đài Đô Ngự Sử, tham dự hội Tao Đàn.

Xã Thường Vụ phụng thờ.

Chú thích:

1/ Thể văn viết về chính trị, mưu kế, sách lược.

2/Đại Việt sử ký toàn thư , Nxb KHXH, 1993, HN, tập II, tr 489. Bản kỷ thực lục quyển XIII - Kỷ nhà Lê, 41a - 41b.

3/ Tổ chức học hàm cao nhất thời xưa.

4/ Hội thơ do Lê Thánh Tông lập và đích thân làm “Chủ Súy”, thường gọi là “Tao Đàn nhị thập bát tú”.

5/ Chức quan chủ việc can gián vua đừng làm việc sai trái.

6/ Chức quan chủ ở việc giúp vua điều hành các công việc thường xuyên.

7/ Có lẽ là Tử tước vì sau này Tương Dực Đế truy phong ông lên tước Bá.

8/ Thời ấy Bộ Lại “trông coi việc tuyển bổ, thăng thưởng và thăng quan tước”.

9/ Họ Đỗ vốn trước kia ở Bình Ngô, đến đầu thế kỷ XVI có một bộ phận lên ở làng Đại Mão nên gọi là họ Đỗ ở Bình Ngô - Đại Mão để phân biệt với nhiều họ Đỗ khác.

10/ Cũng theo tác giả Phạm Thuận Thành thì bài thơ này dựa vào điển tích: Liễu Nghị thi hỏng, về qua bể Nam, thấy một người con gái bị đày ở bãi cát. Hỏi thì biết nàng là con gái thần hồ Động Đình, bị chồng nghi oan bắt đi đầy. Nàng viết một bức thư nhờ Liễu Nghị đưa cho vua cha để giải nỗi oan cho mình. Liễu nghị cảm động nhận lời, lúc ông đi qua hồ Động Đình, ông đã trầm mình để xuống Long cung.

Động Đình là một hồ lớn, ở phía Đông Bắc tỉnh Hồ Nam (Trung Quốc). Ông Nguyễn dùng điển tích này để tỏ nỗi oan khuất của mình, vì thế hai chữ “Nam Ninh” trong câuAi đem người ngọc đến Nam Ninh không phải để chỉ địa danh nơi ông trầm mình.

Xem Thêm

Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Vai trò nòng cốt, quy tụ trí tuệ, kết nối nguồn lực của VAA trong điều khiển và tự động hóa
Ngày 27/12 tại Hà Nội, Hội Tự động hóa Việt Nam (VAA) long trọng tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, nhiệm kỳ 2025-2030. Với chủ đề “Tiếp nối - Phát triển”, Đại hội thể hiện rõ định hướng kế thừa, đổi mới và quyết tâm của VAA trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, nơi khoa học - công nghệ và tự động hóa giữ vai trò then chốt.
Gia Lai: Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tổng kết hoạt động năm 2025
Ngày 26/12/2025, tại phường Quy Nhơn, Hội nghị Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Gia Lai (Liên hiệp hội) lần thứ III đã diễn ra với sự tham dự của đại diện lãnh đạo Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, các ủy viên Ban Chấp hành, đại diện các đơn vị thành viên Liên hiệp hội.
Vĩnh Long: Tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành tổng kết hoạt động năm 2025 và phương hướng nhiệm vụ năm 2026
Sáng ngày 26/12, tại Hội trường Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị phường Phước Hậu, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long (Liên hiệp hội) tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành năm 2025. Hội nghị do Ban Thường vụ Liên hiệp hội tỉnh chủ trì, với sự tham dự của các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành và đại diện lãnh đạo các sở, ban, ngành liên quan.
Thanh Hóa: Tổng kết Hội thi Sáng tạo kỹ thuật cấp tỉnh lần thứ 14 (2024 - 2025)
Sáng ngày 25/12/2025, Ban Tổ chức Hội thi Sáng tạo kỹ thuật Thanh Hóa (Hội thi) tổ chức Lễ tổng kết và trao giải thưởng Hội thi lần thứ 14 (2024 - 2025). Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Phạm Ngọc Linh đã tham dự, phát biểu chúc mừng Ban Tổ chức Hội thi và các tập thể, cá nhân đạt giải tại buổi lễ.
Đắk Lắk: TS. Phan Xuân Lĩnh được bầu làm Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh
Ngày 25/12/2025, Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức Hội nghị về thực hiện quy trình công tác cán bộ. Tại Hội nghị, với 100% số phiếu nhất trí, Ban Chấp hành đã bầu TS. Phan Xuân Lĩnh tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk khóa I, nhiệm kỳ 2025 - 2030.
Khối Khoa học xã hội tổng kết công tác năm 2025
Sáng 23/12, tại Hà Nội, Khối Khoa học xã hội (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức hội nghị tổng kết hoạt động năm 2025 và đề ra nhiệm vụ thực hiện năm 2026. Đến dự có đại diện Thường trực Hội đồng Thi đua- Khen thưởng Liên hiệp Hội Việt Nam; lãnh đạo của các đơn vị thành viện thuộc Khối Khoa học xã hội.
Ông Bùi Trung Kiên được tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2025-2030
Chiều ngày 24/12, TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), đã tới dự và phát biểu chỉ đạo tại Đại hội đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hưng Yên (Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên) lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể Trung ương lần thứ I: Thống nhất trong đa dạng
Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể TƯ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 không chỉ là một dấu mốc về mặt tổ chức, mà còn mang ý nghĩa lịch sử, mở ra chặng đường phát triển mới cho công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong toàn khối. Đại hội thể hiện sâu sắc sự "thống nhất trong đa dạng" - đa dạng về hình thái các tổ chức đoàn trực thuộc và thống nhất về mục tiêu hành động.
Vĩnh Long: Tổng kết Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, Nhi đồng và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa
Sáng ngày 24/12/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, các đơn vị có liên quan tổ chức Hội nghị tổng kết và trao giải Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, nhi đồng tỉnh Vĩnh Long lần thứ XIV, năm học 2024-2025 và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa lần thứ X, năm 2024-2025.
Nhìn lại năm 2025: Những con số biết nói thể hiện sự đóng góp đối với xã hội từ các tổ chức KH&CN trực thuộc VUSTA
Năm 2025, các tổ chức KH&CN trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét, là minh chứng sinh động cho vai trò tiên phong của KHCN trong phụng sự xã hội. Hàng trăm đề tài, dự án KH&CN được triển khai hiệu quả đã lan tỏa giá trị thiết thực trong chăm sóc sức khỏe, xóa đói giảm nghèo, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường và phản biện chính sách.