Vịnh Bắc Bộ nơi mở đầu hàng hải
Một số chứng cớ sau đây góp phần “biện hộ” cho người xưa đã “không sợ biển” và nhiều ít vinh danh những đóng góp to lớn của ông cha chúng ta trong kỹ thuật hàng hải. Đặc biệt đáng nhấn mạnh ở đây, hầu hết các công trình phát minh hàng hải đều được thực hiện bên bờ Vịnh Bắc Bộ và Biển Đông.
Tiền nhân chúng ta sống ngoài biển thời Băng hà
Trong lịch sử trái đất, mực nước biển đã dâng lên hạ xuống nhiều lần, sự sai biệt có tới 150m. Cách nay chừng 18.000 năm, diện tích Biển Đông chỉ bằng phân nửa hiện nay. Dân cư vùng duyên hải vốn sống bằng cách thu lượm tôm cá, sò ốc. Villiam Meacham (1) khi nghiên cứu bản đồ địa hình đáy biển, cho biết lúc xưa bờ Biển Đông tương đối bằng phẳng nhưng bị sông, hồ chia cắt khắp nơi. Khoảng 14.000 năm trước đây, bè tre đã xuất hiện như phương tiện di chuyển chính yếu.
Nhà khảo cổ Malcolm F.Farmer, trong khi đi tìm nguồn gốc thuyền bè, đã thấy rằng Vịnh Bắc Bộ là nơi có chứng cớ nhiều truyền thống liên hệ nhất giữa những loại bè thời cổ với thuyền độc mộc và với các ghe thuyền kiến trúc có sườn, có khung sau này. Farmer cho rằng chính trên các loại bè này, người ta đã phát minh cánh buồm đầu tiên. Chắc chắn “Bè có trang bị buồm” là phương tiện viễn duyên đầu tiên của nhân loại (2).
Rồi qua thời hậu Băng hà (3), nước biển cứ cao dần. Khi mực nước biển gần đạt đến mức độ như hiện nay, chừng -25m, bờ biển đã lùi sâu vào lục địa, gặp đúng chỗ địa thế lởm chởm, lồi lõm. Nhiều nhóm người tự nhiên trở thành người sống trên các hải đảo. Sự liên lạc, di chuyển bằng thuyền bè trở nên ngày càng cần thiết hơn.
Các trở ngại, khó khăn trên biển đã thúc đẩy con người phải phát minh ra những cánh buồm, những bánh lái, những loại thuyền nhiều thân và những cơ phận điều khiển khác để việc hải hành dược an toàn hơn, tránh bị thổi ra ngoài khơi. Meacham tin rằng 6.000 - 4.000 năm trước Công nguyên, những nền văn minh vùng châu thổ Sông Hồng bắt đầu nảy nở. Đồ gốm đã được nặn trên bàn xoay ở Đậu Dương. Khoa khảo cổ cũng tìm thấy dây câu, lưới bắt cá và thuyền độc mộc. Phần lớn dân cư sống bằng ngư nghiệp (4.000 năm TCN). Nhiều người đặc biệt thích nghi với môi trường nước, một số nhỏ hơn sống suốt đời trên bè, trên ghe. Một vài nhóm trở thành những bộ lạc hải du.
Môi trường độc nhất thời Băng hà tạo sinh hoạt hàng hải
Vùng Đông Nam Á nói chung và vùng Vịnh Bắc Bộ nói riêng là nơi duy nhất trên thế giới đã trải qua nhiều cuộc biến chuyển mạnh mẽ về địa lý và nhân văn đặc biệt ảnh hưởng bởi môi trường nước.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng sự thay đổi về địa lý Biển Đông không những chỉ làm thay đổi môi trường sinh sống của sinh, thực vật trên trái đất, dưới biển trong vùng mà còn tạo dựng lên cả một cuộc biến đổi to lớn làm phát sịnh những nền văn minh quan trọng về nông ngư nghiệp cùng hàng hải có thể gọi là tiền tiến của nhân loại.
Tài liệu mới nhất là cuốn Eden in the East: The Drowned Continent of Southeast Asiabác sĩ Stephen Oppenheimer, xuất bản tại Anh năm 1999. Dựa trên những kiến thức cập nhật mới đây của các ngành khoa học như di truyền học, nhân chủng học, thần thoại, văn học dân gian, ngôn ngữ học, hải dương học, khảo cổ học… để cho ra đời một cuốn sách làm cho nhiều nhà nghiên cứu Đông Nam Á học và khảo cổ học phải ngẩn ngơ… Có người còn cho rằng quyển sách quan trọng vào bậc nhất trong ngành Đông Nam Á học!
Chính tác giả Oppenheimer đã viết: “Lý thuyết mà tôi trình bày trong cuốn sách này, lần đầu tiên, đặt Đông Nam Á vào trung tâm của các nguồn gốc văn hoá và văn minh. Tôi cho rằng nhiều người đã phải di tản khỏi vùng duyên hải của họ ở phương Đông vì lụt lội. Những người tị nạn này từ đó vun đắp những nền văn minh vĩ đại ở phương Tây”.
Đã có nhiều nhà khoa học cố gắng giải thích sự hình thành nền văn hoá hàng hải của dân Việt nói riêng và của dân Đông Nam Á nói chung. Những sắc thái đặc thù này khác biệt hẳn với sắc thái văn hoá hoàn toàn lục địa của Trung Hoa.
Sự phân tan văn minh theo đường hàng hải
Lý thuyết Norman cho rằng một số lớn dân Đông Nam Á khởi sự trước hết bằng cuộc sống ở duyên hải (4) sau này hội nhập với dân cư vùng cao nguyên, nhưng rồi trở về lại vùng đồng bằng gần biển, tiếp tục phát triển nghề hàng hải.
Wilheim G.Solheim cho rằng 6.000 năm trước, dân Đông Nam Á đã mạo hiểm ra khơi vì nhu cầu di chuyển. Gió bão và hải lưu của Biển Đông và Thái Bình Dương đã cuốn trôi một số người tới Nhật Bản, trong khi các nhóm khác bị quét sang Philipin, Nam Dương và Melanesia. Tiếp theo, những toán dân chúng di chuyển tới các đảo ngoài khơi Thái Bình Dương và sang Madagascar.
Bàn rộng hơn thế nữa, cũng theo Solheim, Biển Đông của Đông Nam Á thời cổ còn là nơi phát sinh những đường hàng hải giao tiếp với các nơi ở dọc biển Á châu, Âu châu, Phi châu, Đại dương châu và cả Mỹ châu. Solheim lý luận rằng chỉ có sự kiện Đông Nam Á giữ vai trò trung tâm phân tán như trục một cái bánh xe toả nan hoa ra khắp nơi mới giải thích được hiện tượng lịch sử là tại sao các chủng tộc khác biệt của loài người sống xa cách nhau trên khắp thế giới lại có nhiều sự tương đồng về sinh hoạt văn hoá như vậy.
Cùng nhận định như Solheim nhưng đi trước ông tới 40 năm, nhà ngữ học Pháp Paul Rivet đã làm nhiều cuộc nghiên cứu và kết luận rằng: “Từ vùng Đông Nam Á châu, một thứ ngôn ngữ đã được truyền bá đi bằng đường hàng hải đến Nhật Bản, Tasmania, Địa Trung Hải, Phi châu và Mỹ châu (5).
Carl Sauer duyệt xét những biến chuyển về địa lý Biển Đông trong thời khoảng mười mấy ngàn năm trước đây, đưa ra kết luận về tinh thần tiến bộ của cư dân người Việt thời cổ như sau: “Mực nước Biển Đông dâng cao làm tăng thêm nhịp bồi đắp phù sa lên những khu thung lũng duyên hà trong khi các vùng đất thấp tiếp tục bị lụt. Dân cư khi xưa sống rải rác thì lúc này thu lại thành các vùng cư trú dọc theo nguồn nước… Một thế giới mới đã thành hình, sự thay đổi môi trường vật lý địa dư đã trở thành cơ hội thuận tiện tối đa cho những dân thích phiêu lưu và mong tiến bộ… Người dân bỏ sự nhàn rỗi và nhờ trí óc tò mò để tìm thử nghiệm, một cộng đồng như vậy chỉ cần một thời gian ngắn để chuyển tiếp từ ngư nghiệp sang thẳng nông nghiệp (6).
Cùng với Meachan, Sauer ý thức tầm quan trọng của ngư nghiệp và hàng hải trong tiến trình văn minh Đông Á thời cổ. Khác biệt hẳn với các nơi khác trên thế giới, Biển Đông và vùng đất chung quanh có tới hai vụ gió mùa trong một năm, nên hoàn cảnh rất thuận lợi cho sự phát triển các ngành nông nghiệp, ngư nghiệp và hàng hải (7).
Vì Biển Đông có hai mùa gió nên việc hải hành viễn duyên khi đi cũng như khi về rất tiện lợi. Hàng hải phát triển kéo theo sự bành trướng thương mại. Sự trao đổi hàng hoá nâng cao kỹ thuật chế tạo phẩm vật và phương tiện giao thương.
Charles F.Keyes viết trong sách The Golden Peninsula (8) rằng Việt Nam là nơi phát khởi nền văn minh Hoà Bình trải rộng khắp Đông Nam Á. Keyes đã xác định hai điểm sau:
- Quá trình văn hoá thời tiền sử của toàn vùng Đông Nam Á thường được chia ra làm những giai đoạn mà chỉ danh từng giai đoạn lấy từ địa danh các vị trí khảo cổ tiêu biểu nhất như Hoà Bình, Bắc Sơn, Đông Sơn; tất cả đều nằm trong Bắc phần Việt Nam (trang 182).
- Thời đại Đồ Đông xuất hiện vào khoảng 3.000 đến 2.500 năm TCN ở Đông Nam Á, nghĩa là khởi sự sớm hơn Trung Hoa và Ấn Độ. Biểu tượng chính của nền văn minh này là những trống đồng tìm thấy ở nhiều nơi xa xăm như Fores, Sulawesi thuộc Nam Dương quần đảo. Những trống đồng như vậy đều được đúc tại vùng đất Đông Sơn nhỏ hẹp của Việt Nam, từ đó trống được phân phối đi khắp Đông Nam Á theo đường hải thương.
Nằm cạnh bờ Vịnh Bắc Bộ, nền văn minh Đông Sơn không những chi phối các sinh hoạt con người toàn vùng Đông Nam Á mà còn ảnh hưởng xa hơn, ra các đảo Thái Bình Dương và đến cả Mỹ châu. Điều cần thiết phải nhấn mạnh là Đông Sơn, đặc biệt hơn một số các nền văn minh khác ở chỗ nó nhuốm màu sắc hàng hải, hướng về biển cả hơn là đất liền. Cũng nhờ đó, Đông Sơn trở thành một trong các nền văn minh có địa bàn rộng rãi bao la nhất trong lịch sử nhân loại. Cho dù các văn minh Cận Đông, Ai Cập, Ấn Độ, Trung Hoa, Hy Lạp, La Mã… có chói sáng, có vĩ đại mấy đi nữa, cũng chưa bao giờ được kể là đã đi xuyên đại dương, vượt ngang qua nhiều đại lục.
Trong học thuyết về nền văn hoá Đông Sơn, Victor Golubew (9) nói đến ảnh hưởng của nó ra các khu vực lân cận. Ông nêu rõ các dấu tích ảnh hưởng của nền văn minh Đông Sơn cổ ở những quốc gia miền Nam và vùng ven biển Trung Quốc, quần đảo Nhật Bản, ở các dân tộc Nam Đảo châu Đại Dương. Là người ủng hộ tư tưởng về những cuộc tiếp xúc văn hoá rộng lớn thời cổ, ông kiên trì nhấn mạnh nguồn gốc bản địa của nền văn hoá Đông Sơn. Trong cuộc tranh luận với E.Gaspardone, ông đã bác bỏ quan điểm chủ đạo trong ngành Hán học Pháp rằng, dụng cụ bằng kim loại, cũng như nhiều đặc trưng khác của nền văn minh và văn hoá Trung Hoa, mới du nhập vào Việt Nam sau khi nhà Hán xâm chiếm được đất Việt (10).
Ghe thuyền Việt Nam kỹ thuật cao trong thời cổ
Nhiều nhà nghiên cứu hàng hải Âu Mỹ đồng ý với quan điểm của Clinton R. Edwards rằng bờ biển Việt Nam, đặc biệt vùng Vịnh Bắc Việt và Hoa Nam chính là nơi quy tụ nhiều kiểu ghe thuyền phong phú hơn bất cứ nơi nào khác trên thế giới. Kiến trúc tàu bè Việt Nam rất độc đáo và đã đạt đến trình độ kỹ thuật cao ngay từ cổ thời.
Edwards cho rằng những Người Biển (Orang Laut) ở Đông Nam Á thuộc những bộ lạc hải du (Sea nomads) phát triển truyền thống hàng hải trước khi chính họ mở mang nông nghiệp.
Tuy vậy nhân loại ít lưu tâm tới quá trình hàng hải đó nếu như trong khoảng bốn thập niên trở lại đây không có phong trào nghiên cứu những giao tiếp Á - Mỹ trước thời Kha Luân Bố. Một trong những học giả uy tín nhất là Robert Heine Geldern đã nhận ra nhiều mối liên hệ văn hoá giữa Mỹ châu và bờ biển Á Đông mà trong đó nền văn hoá Đông Sơn của Việt Nam rất đậm nét (11). Vì giao tiếp chỉ có thể thực hiện được bằng đường biển nên người ta cần tìm hiểu kỹ thuật kiến trúc ghe thuyền.
Người Việt tiên phong về kiến trúc ghe thuyền
Chúng tôi đã điểm qua các thuyết về quá trình hàng hải của dân ta. Nếu quả thực như vậy, chúng ta phải tìm kiếm xem dân ta đã phát minh và hoàn thiện ghe tàu như thế nào thì mới hoàn toàn thuyết phục được mọi người.
Nói về những thành quả phát minh của người Việt trong công tác kiến trúc thuyền bè, người ta sẽ phải viết rất nhiều. Đề tài này chưa được nhiều người Việt Nam nghiên cứu và viết thành sách. Riêng chúng tôi trong khi đi tìm ra những điểm mốc căn bản cho kỹ thuật hàng hải thời cổ, đã thấy rằng nhân loại nói chung đã đi từ khúc cây làm bè, chuyển dần qua thuyền, cải tiến buồm để di chuyển mọi hướng (quan trọng nhất là đi chệch ngược với hướng gió) và có lẽ sau cùng nghĩ ra cách vận chuyển (lái) thuyền tự động (không cần người lái). Những mốc bứt phá quan trọng nhất về hàng hải đúng là đã xảy ra tại Biển Đông (mà cái nôi là Vịnh Bắc Việt).
Sau đây chúng tôi xin lược kê các phát minh được thực hiện bởi tiền nhân người Việt chúng ta, như sau:
- Chế tạo bè tre gồm những cây tre có đặc tính nổi tự nó. Bè tre không giống ghe thuyền phải tạo ra khoảng không gian kín nước mới nổi được. Sự kết hợp các cây tre tạo tác dụng như những thuyền nhiều thân mang lại sự bền vững (Moment cân bằng là bội số gia tăng theo số các thân thuyền).
- Phát minh buồm để có thể sử dụng được cả hai mặt (for and aft lugsail). Tiến bộ của kỹ thuật này giúp thuyền đi chệch ngược hướng gió.
- Phát minh các ô kín nước (áp dụng từ đặc tính tự nổi của (bè) tre) để gia tăng sự an toàn. Kỹ thuật kiến trúc mềm dẻo, làm thân thuyền thích nghi với sóng gió.
- Phát minh bánh lái đặt ở đuôi trục giữa thuyền giúp thuyền vận chuyển dễ dàng và chính xác hơn.
- Phát minh cây xiếm, phối hợp xiếm với buồm để thuyền tự động lái theo một hướng cố định với hướng gió.
Khả năng đi biển của bè tre Việt Nam
Theo Malcolm F. Farmer, không những bè mảng là thứ “phương tiện nổi” đầu tiên được trang bị buồm; bè mảng còn là tiền thân của các loại ghe thuyền có nhiều khoang kín nước ngày nay (12).
- Bè tre tự nó, theo kiến trúc là một loại phương tiện nổi gồm nhiều ngăn kín nước là những lóng tre. Người Việt là giống dân độc nhất sử dụng đủ các loại tre, bương, luồng… trong một kiển trúc ghe thuyền.
Stephen C.Jeu, một học giả uy tín chuyên khảo cứu về khả năng vượt biển của nhân loại về cổ thời, đã phát biểu trong bài “Diffusion versus Independent Development” như sau: “… sức tác dụng của sóng gió tăng theo với quán tính của những con thuyền nặng nền và do đó cũng làm cho nó dễ bị bể vỡ hơn. Một con thuyền hay một chiếc bè nhỏ bé những kiến trúc tốt, dễ dàng hoàn tất việc vượt đại dương. Đặc biệt tốt hơn nữa nếu kiến trúc lại mềm dẻo, tỷ như các loại bè ghép bằng cây tre và loại thuyền kết bởi ván gỗ” (13). Đặc tính kiến trúc và cả hai loại bè và thuyền ưu việt kể trên đồng thời đều hiện hữu tại Việt Nam.
Phát minh bánh lái
Một mẫu thuyền bằng đồ gốm, có đầy đủ bánh lái và trục bánh lái nằm giữa đuôi thuyền được tìm thấy ở Quảng Châu, gần kinh đô Phiên Ngung của nước Nam Việt trong thời nhà Triệu (thế kỷ thứ nhất TCN). Phát minh quan trọng về lái tàu đã khởi sự trước đó 6 thế kỷ trước thời gian này. Hình ảnh bánh lái đã xuất hiện trên trống đồng Đông Sơn. Vì vùng Quảng Châu là đất những người Việt cổ sinh sống trước kia, nên người ta tìm ra mẫu thuyền có bánh lái ở đó.
Cùng suy luận như vậy, Per Sorence cho rằng quan sát những hình thuyền trên trống đồng, người ta nhận thấy có sự cải tiến kỹ thuật bánh lái theo thời gian. Trên trống loại OB 89 (Tam Ongbah, Thái Lan), bánh lái như được gắn vào một cái trục ở đuôi thuyền. Trên trống Hữu Chung (Việt Nam), bánh lái được thiết trí tương tự như một số ghe thuyền ngày nay. Những thay đổi này đã mở đường cho những khả năng hải hành ngoài biển rộng.
Ảnh hưởng to lớn đến ngành hàng hải như vậy mà chỉ được người Âu châu biết đến và áp dụng vào thế kỷ thứ 12. Một số sử gia cận đại phát biểu rằng chiếc bánh lái sau khi gắn vào đuôi tàu Tây phương đã đẩy mạnh thời đại thám hiểm cùng khám phá đất lạ và dĩ nhiên sau đó, bành trướng chế độ thuộc địa.
Theo những khám phá kể trên, từ thời văn minh Đông Sơn, dân Việt chúng ta đã phát minh ra cách thức điều chỉnh độ sâu của các bánh lái và cây xiếm. Đến nay, những trang cụ độc đáo này còn sử dụng trên các loại bè vùng từ cửa sông Thái Bình đến bờ biển miền Trung, trên các ghe bàu, ghe nang… chạy khắp nơi trong nước.
Chế tác buồm đi trước thời đại
Một số khoa học gia, trong đó có Edwin Doran Jr. Christion J. Buy & Sheli O.Smith đã nghiên cứu và phát hiện rằng cánh buồm đầu tiên xuất hiện giữa vùng Biển Đông (Việt Nam/Đông Dương) và New Guinea (14). Đồ gốm và đá mài tìm thấy trên các đảo trong vùng này chứng minh những giao tiếp bằng đường biển đã xảy ra trước khoảng thời gian 1500TCN (Doran, 1973: trang 49). Khuynh hướng chung ngày nay đã xác nhận rằng đồ gốm, đá mài và các tiến triển văn minh đầu tiên đã khởi đi từ vùng bình lục địa tại Việt Nam.
Khảo cổ học tuy xác nhận buồm hình chữ nhật đã có ở Ai Cập 4.000 năm TCN nhưng cũng cho biết dáng vẻ ấy rất ít thay đổi suốt mấy ngàn năm sau đó. Thuyền Ai Cập có thể rất to lớn nhưng thường thường di chuyển được nhờ mái chèo và chỉ hải hành cận duyên. Qua đến ngày tàn của đế quốc này (khoảng 1.200 TCN), loại thuyền buồm thực sự của người đảo Crète cũng như dân xứ Phoenicia mới xuất hiện.
Ở Á Đông, người ta có thể thừa nhận trong khoảng thiên kỷ thứ 4 hay thứ 3 TCN người Đông Dương (và những dân chư Bách Việt sống trên đất Trung Quốc ngày nay) đã sử dụng ghe thuyền đi biển. Theo lẽ đương nhiên, bè mảng chạy buồm có khả năng đi biển đã xuất hiện trước khi ấy một thời gian (Doran, 1971) (15).
Vì người Trung Quốc thời đó còn đang sinh sống trên thượng nguồn sông Hoàng Hà, rất xa biển, những thành tích này hẳn nhiên phải do người Việt, lúc đó đang cư ngụ ở vùng duyên hải thực hiện. Các tác giả trên đồng ý rằng kỹ thuật chạy buồm Á Đông đã ảnh hưởng sang Tây phương, ngược lại với chiều hướng suy tưởng thông thường.
Nhà khảo cổ học Malcolm F.Farmer trong khi đi tìm nguồn gốc thuyền bè, đã thấy rằng Vịnh Bắc Bộ là nơi có chứng cớ nhiều truyền thống liên hệ nhất giữa những loại bè thời cổ với thuyền độc mộc và với các ghe thuyền kiến trúc có sườn, có khung sau này, Farmer cho rằng chính trên các loại bè, người ta đã phát minh cánh buồm đầu tiên. Chắc chắn “bè có trang bị buồm” là phương tiện viễn duyên đầu tiên của nhân loại” (16).
Theo Robert Temple, sự tiến triển vĩ đại nhất về kỹ thuật chạy buồm là ở chỗ người Á Đông đã đi từ chiếc buồm đơn độc, vuông vức hình chữ nhật chuyển sang loại buồm với những cây nẹp ngang, có thể trở thành mạn để đón gió ở cả mặt sau mà nhờ đó thuyền có thể chạy chếch ngược về hướng gió. Ông cũng cho rằng: “Không ngoa khi nói rằng thế thượng phong của hải quân Anh phần lớn nhờ ở tình trạng sẵn sàng áp dụng những phát minh (Á Đông) nhanh hơn các cường quốc Âu châu khác” (17).
Sách Science and Civilization of Chinaquyển 4, mà tác giả là 2 người Trung Quốc (Wang Ling & Lu Gwei Djen) và một người Anh (Jeseph Needham) đã trích dẫn cuốn sách Nam Châu di vật chí của Vương Chấn và cho rằng “vào thế kỷ thứ 3, tàu thuyền ở Bắc và Bắc Trung phần Việt Nam đã rất tiến bộ, chở được tới 700 người và 260 tấn hàng hoá, mang bốn buồm không đặt thẳng một hàng dọc nên đón được nhiều gió từ những hướng khác nhau” (18).
__________________
Chú giải:
1. Giáo sư William Meacham từng viết một bài báo khoa học mang tính tiền phong trong ngành khảo cổ học ở Đông Nam Á như: On the improbabitily of Austronesian origins in South China, đang trong tập san Asian Perspectives, quyển 25, năm 1984-5.
2. Malcolm F. Farmer. Origon and Development of Water Craft, trong báo Anthropological Journal of Canada7 (2), 1969: 22-26.
3. Băng hà ở hai cực và các vùng núi cao tan ra nước.
4. Duyên hải lúc đó chạy ra rất xa, tới giữa Biển Đông ngày nay. Dân cư sống bằng hải sản như sò ốc, cua ca. Họ di chuyển bằng bè, ghe…
5. Sumérien et Océanien, Collection Linguistique, Paris, 1929.
6. Carl Sauer, “Environmet and Culture During the Last Deglaciation”, trong Proceedings of the American Philosopical Society, 92, 1:65-77.
7. Agricultural Origens and Dispersatls, Series Two, New York 1952: 24-25.
8. Charles F. Keyes: The Golden peninsula. New York, 1977.
9. Trong BEFEO, 1929, t.29 và 1940, tr.40.
10. Tài liệu của V.I.Antoshchenko (Tạp chí Xưa & Nay).
11. American Metallurgy and the Old World, sưu tập Early Chineses Art and its Possible influence in the Pacific Basin, Vol.3, Taiwan, 1972.
12. Origin and Development of Watercraft, Malcolm F.Farmer, in Anthropological Journal of Canada 7 (2) 1969, pp 22-26.
13. Diffusion versus Independent Development” sưu tập “Man Across the Ocean”, Austin, 1971, trang 10.
14. Edwin Doran Jr. Christian J. Buy & Sheli O.Smith. “Chinese Batten Lug Sails”, Mariner’s Mirror, August 1980: 244-245.
15. Edwin Doran Jr. The Sailing Raft as a Great Tradition, sưu tập Man Across the Sea: Problems of Pre-Columbian Contacts, edited by Carol L. Riley, Austin, 1971, trang 135-138.
16. Origin and Development of Water Craft, trong Anthropological Journal of Canada7 (2), 1969: 22-26.
17. Robert Temple. The Genius of China, 3.000 year of Science, Discovery and invention, New York, 1986.
18. Joseph Needham, Wang Ling & Lu Gwei Djen. Science and Civilization of ChinaVol.4 Cambridge, 1971, trang 600.
Nguồn: Xưa và Nay, số 131, tháng 1/2003, tr 26-30