Về các liệu pháp nhắm trúng đích
Các liệu pháp trúng đích là gì?
Các liệu pháp này dùng các loại thuốc để khóa sự tăng trưởng và lan tràn của ung thư. Chúng can thiệp vào các phân tử đặc biệt trong cơ chế sinh ung và sự tăng trưởng của khối bướu. Vì các nhà nghiên cứu gọi các phần tử này là “các đích phân tử” (molecular targets), nên các liệu pháp này được gọi là các liệu pháp nhắm đích phân tử (moleculary targeted therapies) hay là các liệu pháp trúng đích (targeted therapies). Các liệu pháp trúng đích được nghiên cứu để dùng riêng lẻ hoặc kết hợp với nhau, hoặc kết hợp với các liệu pháp khác nhau như là hóa trị.
Các đích phân tử
Các oncogen:thí dụ oncogen Ras: các chất ức chế men farnesyl transferaz được dùng làm tác nhân kháng ung thư vì khóa được hoạt tính của các protein Ras.
Các Tyrosin Kinaz:là đích nhắm phân tử của nhiều liệu pháp kháng ung thư. Imanitib ( Gleevec) là một chất ức chế Tyrosin Kinaz.
Các thụ thể yếu tố tăng trưởng:Một cách can thiệp vào đường dẫn truyền tín hiệu trong tế bào là dùng các kháng thể đơn dòng khóa phần ngoài tế bào của thụ thể yếu tố tăng trưởng.
Người ta đã áp dụng cách này để điều chế Trastuzumab ( Hercptin), thuốc đầu tiên mở ra kỷ nguyên mới cho liệu pháp nhắm đích phân tử.
Sự sinh mạch: sự tăng trưởng và di căn của ung thư lệ thuộc vào máu nuôi. Các chất ức chế sinh mạch đang được triển khai: Bevacizuman (Avastin), Angiostatin và Endostatin.
Sự chết tế bào:Proteasom26s có vai trò chủ yếu trong việc làm thoái biến các protein của tế bào. Các tế bào ung thư cần proteasom, thuốc ức chế proteasom làm ngừng chu kỳ tế bào ở pha G2/M, đưa đến sự chết tế bào. Thuốc Boctozomid gây chết tế bào ung thư theo cơ chế này.
Histon Deacetylaz:sự ức chế men này làm chết tế bào theo lập trình và cũng làm tăng sự biệt hóa tế bào.
Telomezazlà một men ribonuclepprotein giữ chiều dài của telomer của nhiễm sắc thể; từ đó giúp tế bào ung thư tránh được sự lão hóa và tiếp tục bất tử. Telomezaz được dùng như một đích nhắm phân tử. Các chất ức chế Telomezaa đang được triển khai.
Các liệu pháp trúng đích hoạt động ra sao?
Các liệu pháp trúng đích can thiệp vào sự tăng trưởng và sự phân đôi của tế bào ung thư theo nhiều đường khác nhau và tại những điểm thay đổi trong suốt quá trình hình thành tăng trưởng và lan tràn của ung thư. Nhiều loại liệu pháp trúng đích nhắm vào các protein có liên hệ tới quá trình dẫn truyền tín hiệu. Khi khóa các tín hiệu báo cáo cho các tế bào ung thư tăng trưởng và sinh sôi vô tổ chức, các liệu pháp trúng đích có thể giúp làm dừng sự tăng trưởng và phân đôi của các tế bào ung thư. Các đích phân tử khác là sự biểu hiện gen, sự sinh mạch, sự chết tế bào…
Các thuốc sử dụng trong điều trị
Herceptin mở ra kỷ nguyên mới: Herceptin (trastuzumab) là một kháng thể đơn dòng. Herceptin được truyền theo động tĩnh mạch để điều trị vài loại ung thư vú. Công ty Genentech ở San Francisco (Hoa Kỳ) đã sản xuất thuốc này, công ty Roche bán ra thị trường. Herceptin nhắm vào các tế bào ung thư có biểu hiện thái quá hay là sản xuất quá lố một protein tên là HER-2 (erbB2) thấy ở ngoài mặt của các tế bào ung thư. Herceptin làm chậm lại hoặc làm dừng sự tăng trưởng của các tế bào này. Herceptin chỉ được dùng để điều trị các loại ung thư biểu hiện thái quá protein HER-2. Gần 25 - 30% ung thư vú có biểu hiện thái quá HER-2. Các loại ung thư này có khuynh hướng tăng trưởng nhanh hơn và thường dễ tái phát hơn các khối bướu không có biểu hiện thái quá HER-2. Chính Herception mở một kỷ nguyên mới trong điều trị bệnh ung thư: Herceptin được FDA công nhận vào năm 1998 là loại liệu pháp trúng đích đầu tiên được dùng điều trị các ung thư vú di căn. Herceptin được dùng riêng lẻ hoặc kết hợp với hóa trị.
Sau này, có nhiều công trình cho thấy vai trò tích cực hơn của Herceptin phối hợp với hóa trị trong liệu pháp hỗ trợ các ung thư vú sớm (HER-2 dương) chứ không chỉ dùng cho ung thư vú đã di căn.
Glivec hay là Gleevec (Imanitib)ức chế hoạt động của protein Bcr-Abl một protein kinaz, (phân tử bất thường gây bệnh bạch cầu tủy mạn), bằng cách ngăn không cho Bcr-Abl gắn kết với ATP và làm bất hoạt protein này. Glivec mở ra một kỷ nguyên mới trong điều trị bệnh bạch cầu tủy mạn: tác động chính xác lên phân tử protein Bcr-Abl gây bệnh: tỷ lệ đáp ứng về mặt huyết học và di truyền học tế bào rất cao; đưa bệnh nhân trở lại với cuộc sống bình thường và có khả năng chữa khỏi bệnh. Chính thức được dùng trong điều trị bệnh bạch cầu tủy mạn: năm 2001, Glivec được FDA Mỹ phê duyệt cho điều trị bước hai trong bệnh bạch cầu tủy mạn; năm 2002, Glivec được FDA Mỹ và EU phê duyệt để điều trị bước một trong bệnh bạch cầu tủy mạn. Glivec là thuốc đầu tiên có hiệu quả trên GIST (Gastrointestinal Stromal Tumor - Bướu mô đệm dạ dày - ruột). Tháng 2 - 2002, FDA Mỹ phê chuẩn Glivec trong điều trị GIST c-kit+ không mổ được hoặc đã cố di căn; tháng 5 - 2003, EU phê chuẩn Glivec trong GIST. Những khả năng khác trong tương lai: ung thư tế bào nhỏ phổi; ung thư tiền liệt tuyến; các khối u có liên quan đến bất thường c-kit và PDGF (platelet derive growth factor).
Các loại thuốc phân tử nhỏcòn được gọi là các chất ức chế sự dẫn truyền tín hiệu.
Iressa(ZD1839) hay là gefinitib được FDA công nhận (2003) trong điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ ở giai đoạn tiến xa. Thuốc này nhằm khống chế EGFR (epidermal growth factor receptor - thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì), thụ thể này bị sản xuất quá lố do nhiều loại tế bào ung thư. Còn nhiều loại thuốc phân tử nhỏ đang được thử nghiệm lâm sàng tại Hoa Kỳ.
Erbitux(Cetuximab) là một kháng thể đơn dòng nhắm vào đích là EGFR, FDA công nhận năm 2004. Erbitux cho thấy có vai trò hứa hẹn trong điều trị ung thư đại trực tràng trong di căn.
Tarceva(Erlotinib) là kháng thể đơn dòng kháng EGFR - ức chế Tyrosin Kinaz (TK) kết hợp HER1/ EGFE. Tarceva được FDA công nhận năm 2004 dùng trong điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ tiến xa hoặc di căn sau thất bại ít nhất một đợt hóa trị.
Các thuốc gây chết tế bào (Velcade)bằng cách can thiệp vào các protein dính líu tới quá trình này (còn gọi là sự tự vẫn tế bào) - Thuốc Velcade(boctezomib) được FDA công nhận năm 2003 để trị đa u tủy khi người bệnh không chịu các loại điều trị khác. Velcade làm cho các tế bào ung thư chết đi bằng cách khóa các enzym gọi là proteasom 26-S; enzym này giúp điều hòa chức năng và sự tăng trưởng tế bào.
Liệu pháp kháng sinh mạchdùng những thứ thuốc hoặc các tác nhân khác để cản trở sự phát triển các mạch máu mới nuôi dưỡng khối ung thư. Nghĩa là phương pháp này có thể “bỏ đói” các khối bướu bằng cách cắt đứt đường dẫn máu đến nuôi chúng. Sự sinh mạch trong một khối bướu được điều hòa bởi vài hóa chất do cơ chế sản sinh. Nhiệm vụ của các chất này là kích thích các tế bào để sửa chữa các mạch máu bị hư hại hoặc tạo ra các mạch máu mới. Đổi lại cũng có những chất (tự nhiên hoặc tổng hợp) chống lại quá trình sinh mạch, đó là các chất ức chế sinh mạch. Cũng giống như bất cứ tế bào nào tron cơ thể, các tế bào ung thư cần oxy và các chất dinh dưỡng để sống còn. Các chất ức chế sinh mạch bỏ đói khối bướu bằng cách cắt đường tiếp vận (các mạch máu), làm giảm lượng oxy và các chất dinh dưỡng. Hậu quả của việc bỏ đói là khối bướu sẽ tan dần đến kích thước thật nhỏ và ngủ yên. Avastin (Bevacizumab) là thuốc kháng sinh mạch đầu tiên, đó là kháng thể đơn dòng kháng VEGF (Vascular Endothelial Growth Factor) - Yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu. Avastin được FDA công nhận năm 2004 cho dùng điều trị carcinom đại tràng di căn khi thất bại với phác đồ IFL.
Liệu pháp mới chống ung thư này, với cơ sở logic nhất ngày càng nở rộ, đã mang lại hiệu quả phấn khởi và được chấp nhận sử dụng rộng rãi trên lâm sàng. Nhiều hy vọng chống lại ung thư một cách đúng mức và có hiệu quả ngày càng vững chắc.
Các liệu pháp trúng đích làm phong phú thêm nguyên lý trị liệu đa mô thức.