Về bức thư của Phan Thanh Giản gửi cho bà De la Grandière
Thư này do cụ Phan gởi cho bà De la Grandière khoảng 4 tháng (1) trước khi De la Grandière lấn chiếm luôn ba tỉnh phía Tây Nam Kỳ (20/6/1867). Đây là một bức thư thân hữu, mang tính cách ngoại giao, ý nghĩa rất trong sáng và giản dị, chẳng hề có hậu ý chính trị. Thư này lâu nay vẫn được giữ kín trong các giấy tờ riêng tư của gia đình họ De la Grandière. Bà Phan Thị Minh Lễ đã được người cháu bốn đời của De la Grandière là tử tước Gilles De la Grandière niềm nở trao cho bà bức thư này, cùng với một bản dịch ra Pháp văn, giấy đã rất cũ. Gia đình tử tước Gilles cũng không biết dịch giả của bức thư này là ai. Bà Phan Thị Minh Lễ đoán chừng là của Legrand de la Liraye (Cố Trường) nhưng không lấy gì làm chắc. Vì muốn nắm chắc nội dung của bức thư cụ Phan viết bằng Hán văn, bà Minh Lễ liền gởi nhờ Viện Hán Nôm ở Hà Nội (bà không biết tên người dịch) dịch ra tiếng Việt. Sau đó, bà nhận thấy nội dung trong dịch bản tiếng Pháp và tiếng Việt có chỗ bất nhất do có nhiều điểm khác nhau khiến bà thắc mắc. Chẳng hạn ngày 1-4-1867 trong bản dịch tiếng Pháp lại biến thành ngày 1 hoặc 2 tháng 3 trong bản dịch tiếng Việt. (Nguyên tác chữ Hán là ngày 27 tháng 2 năm Tự Đức thứ 20). Xác nhận lại ngày dương lịch chính xác là ngày 2 tháng 3 năm 1867 chứ không phải ngày 1 tháng 4 năm 1867 như bản tiếng Pháp. Vậy bản tiếng Việt đúng về điểm này. Nhưng có điểm “người nhận quà”, bản tiếng Việt lại cho là Phan Thanh Giản nhận, thay vì bà De la Grandière nhận. Đây là điểm nghịch lý cộm nhất. Vì dịch như vậy, hóa ra cụ Phan Thanh Giản, người tặng quà trở thành người nhận quà. Và như vậy có thể làm người ta hiểu là cụ Phan đã “ăn hối lộ” hay bị người Pháp mua chuộc. Và bà Minh Lễ viết:
“ Nous avons trouvé curieux que la traduction moderne Vietnamienne parle, au con traire, d ,un cadeau adre ssé à Phan Thanh Gian par Ma-dame de la Grandière”.(Chúng tôi lấy làm lạ là bản dịch Việt ngữ hiện đại, trái lại, lại nói tới một móm quà do bà De la Grandière gởi cho Phan Thanh Giản). Tác giả, bà Minh Lễ tìm cách giải thích sự lầm lẫn này: Có thể là do cách nói bằng chữ Hán muốn diễn tả sự khiêm tốn khi người ta gửi cho ai một vật gì, ở đây, là món quà (vật nhỏ mọn không đáng giá là bao) do Phan Thanh Giản gửi cho bà De la Grandière.
Chúng tôi đã đọc kỹ bản dịch ra tiếng Pháp và nhận thấy nội dung đúng như lời bà Minh Lễ nhận xét. Chúng tôi dịch sang tiếng Việt văn bản :
“ Quan Đại Nam Hiệp Biện Đại học sĩ khâm sai Đại Thần ba tỉnh Vĩnh Long, An-Hà, tướng quân Phan.
Trân trọng viết thư này cho quý phu nhân mệnh phụ của ngài Thống đốc, Tổng chỉ huy người Pháp “Gia”…(cách đọc tính danh “De la Grandière” của người Việt Nam).
Mấy ngày qua vị Tổng đốc Mỹ Tho khi đến thăm tôi có cho tôi hay Ngài Đô Đốc vốn mạnh khoẻ, còn quý phu nhân còn đau vì khí nóng bức của thời tiết; nhưng nay phu nhân đã khá hơn; những công vụ của tôi không cho phép tôi đến vấn an bà, thật tôi vô cùng ân hận; tôi vừa hết sức vui mừng vì bức thư của bà được dịch ra, nói về một vật nhỏ mọn không đáng giá là bao, vì nó mà bà đã gửi đến tôi những lời cám ơn nồng hậu như vậy, khiến tôi phải hổ thẹn.
Thưa quý phu nhân, tôi cầu mong cho ân chúa phù hộ quý ngài, bà và ngài Thống đốc, được trường thọ và tôi nhất trí với mọi ước vọng do bà nêu ra, cầu mong cho sự thịnh vượng của hai vương quốc được đoàn kết với nhau mãi mãi. Tình cảm này trong tôi không thể xóa nhòa và khó lay chuyển.
Thưa bà,
Tôi cầu mong cho làn hương của các mầm non tỏa rộng trong ánh quang huy mang đến cho bà, tất cả những lời cầu chúc thịnh vượng do tôi khấn vái từ xa.
Tự Đức năm thứ 20, tháng 2, ngày 27. Một tháng Tư năm 1867”.
Để so với nguyên văn chữ Hán của Phan Thanh Giản chúng tôi xin chép ra đây bản phiên âm Hán Việt và bản dịch của tác giả Khổng Đức. Các văn bản này sẽ xác định nội dung đích thực của bức thư có vấn đề này.
Bản phiên âm Hán Việt :
“Đại Thần Khâm sai Vĩnh Long-An-Hà tam tỉnh Kinh lược Phan túc thư phụng À madame de la Grandière (2)
Đại Phú Lãng Sa Khâm sai Toàn quyền Đại Thần Gia trướng tiền.
Đại Nam Hiệp Biện Đại học sĩ, Phụng Sung Vĩnh Long-An-Hà tam tỉnh Kinh lược đại thần Phan túc thư phụng.
Đại Phú Lãng Sa Tổng Thống Thuỷ lục quân dân Khâm sai toàn quyền đại thần Gia.
Quý chức mệnh phụ quý phu nhân trướng tiền ngọc chiếu. Tạc tiếp Tường Đốc An Kiến huệ lai vân Quý Soái cận trạng an hão, quý phu nhân pha nhân viêm nhiệt vi khiếm điều thích, hiện dĩ thanh thái, thiểm chức công sung vị nang thân hầu, thậm khiêm nại hà, trang tiếp dịch đáo hão âm bất thăng hỉ ủy, hựu dĩ nang thần vi tặng đa thừa trí ý khoản khúc đạo cập bất giác linh nhân quý cảm bất trí. Đản nguyện chủ ân bảo ái huệ hựu hiền Soái ký hiền mệnh phụ Phu nhân phúc lý độn bàng.
Thiểm chức dự thừa hợp khế đồng tâm vĩnh chung ngô đạo tỉ lưỡng quốc nhân dân mông kỳ lạc lợi trường như :
Lai giáo thử tâm minh khắc vô hữu cùng kỳ hỉ, điều phong tống giáp dao thọ tăng an.
Tự Đức nhị thập niên, nhị nguyệt, nhị thập thất nhật”.
Dịch nghĩa:
Vị kinh lược Đại thần Khâm sai ba tỉnh Vĩnh Long-An Giang-Hà Tiên là Phan Thanh Giản gởi thư cho bà De la Grandière là phu nhân của vị Đại thần Khâm sai toàn quyền của nước Đại Pháp.
Với chức vụ Đại Nam Hiệp Biện Đại học sĩ phụng mệnh kinh lược ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên, họ Phan kính cẩn gửi thư đến.
Đại Thần Gia (De la Grandière) Tổng Thống thủy quân lục quân dân của nước Đại Pháp, kiêm Khâm sai toàn quyền.
Quý chức Mệnh phụ quý phu nhân là người ngọc trong trướng.
Hôm qua tôi đã tiếp nhận được tin từ Tổng đốc Định Tường, gần đây sức khoẻ quý Soái rất tốt đẹp, chỉ có quý phu nhân hơi không thích ứng với khí hậu viêm nhiệt, nhưng nay cũng đã khỏe rồi (thanh thái). Thiểm chức vì công vụ bận rộn nên không đến thăm viếng được. Lòng tôi rất tiếc nhưng không biết làm sao! Nay lại tiếp được tin lành của quý phu nhân mạnh khoẻ (hảo âm) nên rất vui mừng. Lại vì sự đi lại ngày trước (Nang thần = dĩ vãng). Bà được quà tặng của ít lòng nhiều, mà tỏ ý ân cần chân thực (Trí ý khoản khúc) khiến lòng tôi vô cùng hổ thẹn. Đành chỉ mong (Đản nguyện).
Chúa ban ân lành cho Hiền soái với Hiền mệnh phụ phu nhân phúc lộc dồi dào (Phúc lý độn bàng).
Thiểm chức mong mỏi có sự đồng tâm hiệp ý giữa hai quốc gia cho nhân dân được an vui.
Đây là lòng chân thành kính mến của tôi luôn luôn khắc ghi. Kính gởi lời cầu chúc khang an.
Ngày 27 tháng 2 Tự Đức năm thứ 20.
(1) De la Grandière đã sang thay cho Bonard, thi hành hoà ước Nhâm Tuất (1862) rồi lập mưu chiếm luôn 3 tỉnh miền Tây của Nam triều.
(2) Câu này có lẽ của phiên dịch viên hay Phan Thanh Giản ghi thêm bằng bút lông. “Gởi phu nhân De la Grandière”
Nguồn: Xưa và Nay, số 138, tháng 4 năm 2003, tr 21, 22.








