Vận động ngoại giao của Pháp năm 1945 để thực hiện kế hoạch quay trở lại Việt Nam
Tháng 8 năm 1945, Paris đang vô cùng bận rộn làm sao đưa được quan hệ Pháp – Anh lên một vị thế mới. Các nhà hoạch định chính sách của Pháp cũng đang so đo tầm cỡ của Tổng thống Truman so với người tiền nhiệm Roosevelt. Các quyết định quan trọng nhất là việc bổ nhiệm đô đốc Thierry d’Argenlieu làm Cao uỷ Đông Dương và tướng Lecterc làm tư lệnh quân Pháp ở Viễn Đông, công bố hôm 17 tháng 8. Cùng ngày, cuộc họp Bộ Tổng tham mưu do de Gaulle chủ trì xem xét tính hợp thức trong điều động binh sĩ vừa mãn nhiệm vào lúc cuộc chiến với Nhật kết thúc, sang lại Đông Dương, rồi các khó khăn trong việc trang bị cho những đơn vị tác chiến ở vùng nhiệt đới, tới việc tìm cho đủ phương tiện vận chuyển đường biển. Đã có ngay phân đội 979 lính và 17 chiến xa để cài vào quân đội Anh - Ấn đi từ Ceylon sang Sài Gòn. Một cụm khác gồm 2.300 lính ở Madagascar đang sửa soạn sau hai tuần nữa thì leo lên tàu, rồi 17.000 quân tinh nhuệ của sư đoàn thuộc địa số 9 sẽ nhổ neo rời Pháp vào trung tuần tháng 9. Một trong những đề xuất trước khi lên đường của d’Argenlieu là xin Bộ Tổng tham mưu cho tăng số lượng Dakota C47 cấp cho Đông Dương, hẳn đã được copy từ dự trù của Leclerc, lúc đó vừa dự lễ đầu hàng ở Tokyo về tới Ceylon. Theo đó, con đường duy nhất dẫn các đơn vị Pháp tới miền bắc Đông Dương sẽ là thả dù hoặc đổ bộ đường biển.
Khi tướng de Gaulle sang Washington ngày 22 tháng 8 để gặp Tổng thống Truman, ông đã đưa vấn đề Đông Dương vào chương trình nghị sự. Trước hết Mỹ phải tái xác nhận chủ quyền của Pháp (ở Đông Dương), tạo đà cho nước này giành chủ động về chính trị cái đã, rồi từ đó mà đồng minh sẽ phải chi ra nhiều tàu chiến và máy bay hơn cho Pháp. De Gaulle hẳn cũng mong Truman xem xét lại quy mô chiếm đóng miền bắc Đông Dương của người Tàu. Tuy nhiên, vì Tưởng điên tiết khi bất ngờ bị mất quyền giải giáp quân Nhật ở Hồng Kông, Truman không muốn chọc giận thêm ngài thống chế Tàu bằng việc sửa đổi bản Đại quân lệnh số 1 (1), vốn dĩ đã hạ thấp chức trách của Trung Hoa. Điều quan trọng nhất mà de Gaulle đã đạt được trong tất cả những gì ông khẩn khoản, là lời hứa sẽ không cản đường người Pháp quay lại Đông Dương. Trong một thông báo cho các quan chức ngoại giao ở cấp cần phổ biến. Bộ ngoại giao Hoa Kỳ viết “Đây không phải là chủ trương (của chính phủ Mỹ) giúp cho người Pháp xác lập trở lại quyền kiểm soát Đông Dương bằng vũ lực, cũng không phải Mỹ mong muốn thấy Pháp kiểm soát được Đông Dương vì tin lời Pháp rằng đã giành được sự ủng hộ của dân chúng xứ này, mà nên chờ xem tình hình diễn biến ra sao”. Tuy nhiên, Hoa Kỳ vẫn để cho Pháp sử dụng Thoả ước thuê mượn vũ khí (áp dụng trong Thế chiến II) vốn dành cho các hoạt động chống Đức và Nhật, để trang bị cho bộ đội của tướng Leclerc, nay được cử đi Đông Dương sau khi Thế chiến đã kết thúc. Vài tuần sau, tàu chiến của Mỹ sẽ được thuê để chở ít nhất 13 ngàn quân Pháp sang Sài Gòn.
Tướng de Gaulle cũng dùng Washington làm bàn đạp để đưa ra một vài tuyên bố đơn phương về Đông Dương, đáng kể nhất có thông điệp “của Nước Mẹ gửi đàn con”, đã làm số người Việt Nam nghe đài Đồng minh hoặc nghe truyền đạt lại tức điên lên. Tại một cuộc họp báo ngày 24 tháng 8, de Gaulle khăng khăng cho rằng “Lập trường của Pháp về Đông Dương rất đơn giản, Pháp sẽ giành lại chủ quyền của mình ở Đông Dương”. Mặt khác, de Gaulle đã không tỏ ra ngại ngần, khi nói rằng rốt cuộc nhân dân Đông Dương sẽ được độc lập, tuy chỉ trong các tiếp xúc riêng. Từ độc lậpcũng đã được dùng trong cuộc thảo luận của de Gaulle với Truman, cho dù phu nhân Tưởng Giới Thạch rõ ràng đã cường điệu, khi tuyên bố Tổng thống (Hoa Kỳ) kể với bà hôm 19 tháng 8 rằng de Gaulle đã cam đoan sẽ lập tức trao trả độc lập cho Đông Dương. Khi đang ở Washington, de Gaulle đã nhận được điện của Quai d’Orsay (Bộ Ngoại giao Pháp) khuyến nghị rằng ông chỉ nên dùng từ “dân Anamít”, và tránh đề cập khái niệm “độc lập” trong các diễn đàn công khai. Lời khuyên này nhằm bác bỏ điện vô tuyến ngày 22 tháng 8 của tướng Alesandri và Léon Pignon gửi từ Côn Minh, trong đó hai vị này không những đã dùng từ Việt Nam khi đề cập tới bức điện mà Bảo Đại gửi cho de Gaulle, mà còn đề nghị không tránh nế vấn đề độc lập trong các cuộc đàm phán tương lai. Như Statin Tonneson đã viết trong cuốn Cách mạng Việt Nam 1945: Roosevelt, Hồ Chí Minh và de Gaulle trong một thế giới có chiến tranh(2), chính Bộ Thuộc địa Pháp cũng cổ suý quan điểm nhượng bộ trào lưu dân tộc chủ nghĩa Việt Nam, cho rằng thậm chí nên chấp nhận, nếu cần, nguyên tắc thống nhất ba miền của Việt nam, cốt sao đảm bảo sự hiện diện chính thức của Pháp ở bất kỳ quy mô nào tại xứ này. Tuy nhiên, nguyên tắc của de Gaulle lại là: “Không bao giờ hứa hẹn khi ở thế yếu, và chỉ tỏ ra rộng lượng trên thế mạnh”. Chỉ vài tuần sau khi de Gaulle trở lại Paris , lập trường nói trên của Bộ thuộc địa sẽ bị Uỷ ban nhà nước về Đông Dương cự tuyệt.
![]() |
Ảnh 2 |
Vào ngày 24 tháng 8, theo tinh thần cuộc nói chuyện tại Kandy, Ceylon, với Huân tước Mountbatten, tư lệnh quân Anh ở Đông Nam Á, tướng Leclerc làm một kế hoạch giành lại quyền kiểm sót ở Đông Dương. Toàn bộ việc tái chiếm nam phần vĩ tuyến 16 sẽ đảm bảo được nhờ bám đuôi quân đổ bộ của Anh. Hễ quân tăng viện từ Pháp vào đến nơi một cái là điều ngay đi tiếp quản các vùng quân Tàu chiếm đóng. Để gây khó khăn cho quân Tàu, tất nhiên cho cả cái miền Bắc vốn điêu linh xờ xạc vì đói kém kia, đô đốc d’Argenlieu xoay được một cam kết của Anh rằng sẽ không chở thêm thóc ra miền Bắc (3), trừ phi toàn bộ xứ Đông Dương lại về tay Huân tước Mountbatten.
Ngày 28, Leclerc điện về Paris danh sách các tàu chiến mà ông ta sẽ cần đến, bất luận là của người Anh ở Ấn Độ hay của người Mỹ ở Philipin, cốt sao Sư đoàn thuộc địa số 9 trở lại Đông Dương. Mounbatten bèn dặn rằng phải dùng cờ Pháp, chớ treo cờ Anh. Từ đây, Leclerc mới vỡ ra rằng khát vọng của Anh giúp Pháp giành lại quyền bính bị kìm nén bởi quan hệ Anh – Hoa Kỳ, đặc biệt trong vấn đề quyền lợi của Trung Hoa ở bắc phần vĩ tuyến 16. Khi còn ở Yokohama dự lễ đầu hàng chính thức của người Nhật, Leclerc đã sung sướng nghe tướng Mỹ MacArthur khuyên “Hãy mang, mang nữa, mang thêm nữa quân sĩ vào Đông Dương”. Tuy Leclerc vẫn lu loa lời khuyên của MacArthur trên đài Dehli hôm 2 tháng 9, làm cho người Việt sững sờ, còn người Pháp mơ hão, vị tướng Mỹ lại phớt lờ khả năng cho mượn tàu bè của mình để chở quân Pháp.
Vào giờ phút ấy người Pháp chỉ còn biết trông chờ vào lượng hải hà của ông bạn Anh quốc. May cho họ, Hội đồng tham mưu ở Londonđã ưu tiên việc chiếm đóng Sài Gòn, xếp lên vị trí thứ hai, chỉ sau Singapore nơi đóng Bộ tư lệnh Nhật ở Nam Á, thống chế Terauchi bị giải giáp. Kể từ ngày 28 tháng 8, máy bay hoàng gia Anh thả tờ rơi, thức ăn và thuốc men xuống cho những trại tù binh quân Đồng minh nào đã biết chỗ ở Đông Dương. Chẳng ai đoán được là quân Nhật, mà phần lớn không hề bị thua, sẽ phản ứng ra sao khi quân Đồng minh bỗng cưỡi lên lưng họ và ra lệnh này nọ. Tướng Dougles Gracey, tự lệnh các lực lượng Đồng minh sắp vào chiếm miền Nam Đông Dương được lệnh chiếm đóng Sài Gòn, giải cứu tù binh và những dân thường của khối Đồng minh bị giam, duy trì trật tự an ninh và “giải phóng lãnh thổ phe Đồng minh tới mức nào mà khả năng còn cho phép”. Để làm tình hình phức tạp thêm kể cả trước khi một phân đội nhỏ quân Anh hạ xuống phi trường Tân Sơn Nhất vào mồng 6 tháng 9, sẽ cho phép một số quân Nhật vẫn được mang vũ khí để trợ giúp bảo đảm an ninh. Ai cũng biết sẽ khó tránh được những xung đột nào đó, nhưng chính sự mập mờ trong quân lệnh và thái độ lẩn tránh trách nhiệm về chính trị của Anh đã làm cho tình hình ở Sài Gòn bi đát hơn nhiều.
_________
* David Marr, Vietnam1945: The Quest for Power, Nxb Universityof California Press, 1995.
1. Ngày 10 tháng 8 người Mỹ chủ động dự thảo “Đại quân lệnh số 1” nhằm sắp đặt việc Nhật đầu hàng.
2. Stain Tonneson, The Vietnamese Revolution of 1945: Roosevelt, Ho Chi Minh and de Gaulle in World at War ( London , 1991), 366-67. 3 Điều này đã làm trầm trọng thêm tình hình đói kém ở Bắc Bộ do trận lụt tháng 8 năm 1945 và gánh nặng do buộc phải cung cấp lương thảo cho 20 vạn quân Tưởng. Kết quả là tối thiểu đã có 11.438 người chết đói. Theo các công văn Uỷ ban Hành chính Bắc Bộ gửi Bộ Nội vụ, 7/11/1946 và Uỷ ban Hành chính Bắc Bộ gửi Bộ Nội vụ, 7/11/1946 và Uỷ ban hành chính Bắc Bộ gửi Nha Cứu tế trung ương , 10 tháng 9, 1946. (AOM, INF, GF 12), dẫn theo Việt Nam năm 1945, tr 510.
Chú thích ảnh:
1. Ngày 5/12/1944 tướng De Gaulle cầm đầu phái đoàn Pháp đến Matxcơva để hội đàm với chính phủ Liên Xô. Một uỷ ban gồm 5 vị tướng Hồng quân đã được giao nhiệm vụ soạn thảo các hiệp ước quân sự.
2. Ngày 18/6/1945, tại Paris , tướng De Gaulle gắn Huân chương Giải phóng cho tướng Eishenhower, người đã chỉ huy quân Mỹ giải phóng nước Pháp.
Nguồn: Xưa & Nay, số 247, 11/2005