Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ ba, 03/08/2010 16:50 (GMT+7)

Ứng dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học – giải pháp quan trọng để thực hiện VietGAP

1. Khó khăn trong công tác quản lý sản xuất rau an toàn (RAT) và sự ra đời của VietGAP

Trong những năm qua, sản xuất nông nghiệp nước ta đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Từ một nước nhập khẩu, Việt Nam đã trở thành một trong những nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về lúa, gạo, cà phê… và nhiều mặt hàng rau quả, nông sản khác như tiêu, chè, điều… Tuy nhiên cũng như nhiều nước khác trên thế giới, vấn đề ổn định chất lượng sản phẩm và vệ sinh an toàn thực phẩm đang trở thành mối quan tâm chung của xã hội cũng như cản trở việc xuất khẩu nông sản ở nước ta. Trong đó, rau được coi là mặt hàng nhạy cảm và được xã hội quan tâm, lo lắng nhất. Theo số liệu thống kê của Tổng cục thống kê năm 2006, diện tích trồng rau của cả nước là 643.970 ha (tăng khoảng 22.000ha (chiếm gần 5%), diện tích trồng rau áp dụng GAP (Good Agricultural Practice) chỉ đạt 0,2% (Hội thảo phổ biến ASEAN - GAP tháng 4/2008, Bộ NN&PTNT). Sản xuất RAT theo hướng GAP được hiểu là sản phẩm khi đưa ra phải đảm bảo 3 yêu cầu: An toàn cho môi trường; An toàn cho người sản xuất; An toàn cho người tiêu dùng.

Những tồn tại lớn nhất trong công tác sản xuất nông sản an toàn nói chung và RAT nói riêng ở nước ta phải kể đến đó là: Chưa có được bộ quy trình đồng bộ, thực tiễn, dễ áp dụng và dễ giám sát sản xuất; Chưa xây dựng được cơ chế chính sách và hình thành được hệ thống tổ chức sản xuất, quản lý chất lượng phù hợp cho việc giám sát và cấp chứng chỉ chất lượng sản phẩm, do đó không tạo được niềm tin cho người tiêu dùng (Nguyên nhân chủ yếu là do đặc thù về quản lý ruộng đất và tập quán canh tác không phù hợp; quy mô, diện tích sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ, manh mún, chưa tập trung); Trình độ nhận thức và tính tự giác của người nông dân về sản xuất sản phẩm RAT chưa cao; Môi trường sản xuất ô nhiễm và thiếu nguồn vật tư đầu vào sạch; Năng lực tổ chức, triển khai ứng dụng các tiến bộ KHKT, năng lực quản lý, giám sát của các cơ quan chức năng còn hạn chế, chưa phối hợp đồng bộ, ăn khớp; Các chương trình dự án phối hợp chưa chặt chẽ, chưa tìm được thương hiệu trên thị trường, người tiêu dùng chưa tin tưởng vào chất lượng và độ an toàn của sản phẩm. Giá cả các sản phẩm an toàn chỉ bằng hoặc cao hơn không đáng kể so với sản phẩm thường nên chưa khuyến khích được người trồng và kinh doanh nông sản an toàn.

Trước tình trạng đó, Bộ NN&PTNT đã ban hành một số quyết định như: Quy định về quản lý sản xuất và kinh doanh RAT ban hành kèm theo Quyết định số 106/2007/QĐ.BNN (ngày 28/12/2007); Quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt cho rau quả tươi an toàn (VietGAP) do Bộ trưởng Bộ NN&PTNT ký kèm theo Quyết định số 378/QĐ-BNN.KHCN (ngày 28/1/2008); Quyết định số 84/QĐ-TT-CLT (ngày 22/4/2008) về việc chỉ định tổ chức chứng nhận RAT theo VietGAP của Cục Trồng trọt - Bộ NN&PTNT. Sự ra đời của VietGAP là một bước tiến quan trọng để đẩy mạnh việc quản lý sản xuất, giám sát chất lượng và truy nguyên nguồn gốc hàng hóa, tạo điều kiện để các sản phẩm RAT có được chỗ đứng vững chắc trên thị trường.

Tuy VietGAP đã ra đời được hơn 1 năm nhưng việc triển khai việc vẫn gặp nhiều khó khăn do nền sản xuất nhỏ, manh mún. Để có thể tiến hành theo hướng kiểm tra, giám sát đầu vào thì cần phải thay đổi hình thức tổ chức sản xuất; hình thành được mạng lưới và cơ chế giám sát, cấp chứng chỉ; phải có tổ chức hoặc cá nhân chịu trách nhiệm và ký các hợp đồng với tổ chức giám sát. Đặc biệt để thực hiện VietGAP cũng cần phải có nguồn nguyên liệu đầu vào sạch, an toàn, trong đó việc ứng dụng các sản phẩm sinh học (phân bón, thuốc BVTV) được coi là một giải pháp quan trọng, thực tiễn và hữu hiệu. Với những ưu điểm nổi bật là an toàn, nhanh phân hủy, không gây ô nhiễm môi trường, không để lại dư lượng hóa chất độc hại trong nông sản, các sản phẩm BVTV sinh học không chỉ được coi là một giải pháp thay thế quan trọng cho các hóa chất độc hại mà nó còn tạo điều kiện thuận lợi cho công tác giám sát chất lượng sản phẩm.

2. Nghiên cứu, phát triển và ứng dụng các sản phẩm sinh học BVTV phục vụ sản xuất nông sản an toàn.

Nhận thức được tầm quan trọng của việc ứng dụng các sản phẩm sinh học BVTV trong sản xuất nông sản an toàn, Bộ KH&CN cũng như Bộ NN&PTNT đã hỗ trợ các viện nghiên cứu thực hiện nhiều đề tài, dự án nghiên cứu và phát triển thuốc BVTV sinh học, qua đó đã tạo được nhiều sản phẩm sinh học tiên tiến, có khả năng sử dụng như một giải pháp thay thế hiệu quả để ứng dụng trong sản xuất nông sản an toàn. Các sản phẩm có thể tạo ra bằng nhiều con đường khác nhau như chế phẩm sản xuất từ virus (NPV), từ vi khuẩn ( Bacillus thuringiensis), từ các loại nấm côn trùng ( Metarhizium, Beauveria), nấm đối kháng ( Trichoderma), từ tuyến trùng…, cũng như các chất độc được chiết xuất từ các loại thực vật có hoạt tính trừ sâu như xoan Ấn Độ, Deris, cây thanh hao… Tuy nhiên, mức độ thành công trong nghiên cứu, phát triển và ứng dụng các sản phẩm sinh học cũng tùy thuộc vào từng tác nhân sinh học được ứng dụng trong công tác BVTV.

* Nghiên cứu, phát triển và ứng dụng các thuố trừ sâu sinh học có nguồn gốc từ virus

Ở nước ta, các nghiên cứu về virus côn trùng để trừ sâu hại được bắt đầu từ năm 1980. Trong thời kỳ đó, các nghiên cứu mới chỉ tập trung vào nhóm virus nhân đa diện NPV. Việc nghiên cứu sử dụng virus côn trùng trong phòng chống sâu hại gồm hai nội dung chủ yếu là: nghiên cứu nhân nuôi hàng loạt sâu ký chủ bằng môi trường thức ăn nhân tạo và nghiên cứu phát triển chế phẩm NPV. Tuy nhiên tiềm năng ứng dụng virus trong sản xuất thuốc trừ sâu sinh học là rất lớn nhưng do tính chuyên tính cao, phải sản xuất trên môi trường sống nên khả năng nhân rộng trong sản xuất là hạn chế. Vì vậy việc nghiên cứu ứng dụng virus mới chỉ thành công trong việc trừ một số loài sâu hại như sâu đo xanh ( Anomis flava) hại đay; sâu xanh ( Heliothis armigera) hại bông, nho; sâu khoang ( Spodoptere litura) hại đậu đổ. Ứng dụng thành công nhất của chế phẩm virus là việc ứng dụng hỗn hợp giữa virus với vi khuẩn tạo thành sản phẩm hỗn hợp V-Bt có khả năng trừ được loài sâu hại rau thuộc bộ cánh vảy như sâu tơ, sâu xanh, sâu khoang hại bông và nho; sâu khoang ( Spodoptere litura) hại đậu đỗ. Ứng dụng thành công nhất của chế phẩm virus là việc ứng dụng hỗn hợp giữa virus với vi khuẩn tạo thành sản phẩm hỗn hợp V-Bt có khả năng trừ được loài sâu hại rau thuộc bộ cánh vảy như sâu tơ, sâu xanh, sâu khoang hại bông và nho.

* Nghiên cứu phát triển và ứng dụng các thuốc trừ sâu sinh học có nguồn gốc từ vi khuẩn

Vi khuẩn Bt là loại vi khuẩn gây bệnh cho công trùng quan trọng nhất. Trên thế giới, Bt được nghiên cứu sử dụng rộng rãi để trừ nhiều loại sâu hại. Ở nước ta, việc nghiên cứu Bt được tiến hành theo 2 hướng là nhập nội chế phẩm từ nước ngoài và nghiên cứu sản xuất Bt trong nước. Từ năm 1971 - 1974, Viện BVTV đã tiến hành đánh giá hiệu lực của chế phẩm Bt nhập nội như Entobacterin, Biotrol, Bacillus serotype 1, Thuricide, Thuringin 150Mvà đã khẳng định các sản phẩm này có hiệu lực cao đối với các sâu hại rau bộ cánh vảy. Trên cơ sở các chủng Bt của Việt Nam , các nhà khoa học đã phát triển được chế phẩm Bt 1, Bt 2, Bt 3, BTTH, TTN. Chế phẩm Bt 1, Bt 2dạng nước với liều lượng 1 lít/ha cho hiệu lực trừ sâu tơ trong phòng đạt 57,3 - 95,5% và hiệu lực trừ sâu trên đồng ruộng đạt 50-77,4%. Cho đến nay đã có hàng loạt Bt để trừ các sâu non bộ cánh vảy như sâu tơ, sâu xanh, sâu khoang hại rau, sâu cuốn lá, sâu đục thân hại lúa và nhiều đối tượng sâu hại khác.

Cơ chế tác động chủ yếu của Bt là sau khi côn trùng ăn phải tinh thể độc tố Bt, dưới tác dụng của pH cao đường ruột (pH>10) và emzym Proteaza, tiền độc tố bị phân hủy thành những phân tử nhỏ có hoạt tính độc. Các hoạt tính này bám dính lên tế bào thượng bị ruột, tạo nê các lỗ dò để cho các ion và nước chảy vào gây nên sự phình và phân giải tế bào làm cho côn trùng ngừng ăn và chết, do đó hoàn toàn không gây độc cho người. Tuy nhiên, do hạn chế về công nghệ sản xuất, việc sản xuất sản phẩm Bt trên quy mô lớn còn gặp nhiều khó khăn.

* Nghiên cứu phát triển và ứng dụng các thuốc trừ sâu sinh học có nguồn gốc từ nấm.

Từ 1970, Trường Đại học Lâm Nghiệp bắt đầu nghiên cứu nấm Beauveria bassianađể trừ sâu róm nhưng chưa đưa được chế phẩm vào sản xuất. Từ đầu 1990, các nấm Beauveria bassiana, Metarhizium anisopliae, Metarhizium flavovirideđược nghiên cứu ở Viện BVTV. Chế phẩm sinh học từ các nấm này được sản xuất dưới dạng thô (hỗn hợp môi trường và bào tử nấm). Một số chế phẩm có hiệu lực khá cao với công trùng gây hại như chế phẩm Beauveriacó hiệu lực 7-10 ngày sử dụng đối với sâu non bộ cánh vảy hại rau và các cây trồng khác; chế phẩm Metarhiziumđối với châu chấu lưng vàng; nấm bột Nomuraea rileyidiệt trừ được các loại sâu xanh, sâu khoang và một số loại sâu hại rau khác với tỷ lệ khá cao; nấm bạch dương Beauveria bassianavà nấm lực cương Metarhizium anisopliaeđể phòng trừ nhiều đối tượng sâu bệnh hại bộ cánh vảy (sây tơ, sâu xanh, sâu khoang), cánh cứng (sùng hại gốc) hay cánh thẳng (châu chấu)…

Nghiên cứu phát triển và ứng dụng các thuốc trừ sâu sinh học có nguồn gốc Pheremon giới tính

Pheremongiới tính là hợp chất hoá học có hoạt tính sinh học cao và chuyên tính theo loài, do đó có ưu thế rõ rệt hơn các chế phẩm BVTV khác, không gây độc hại cho người và sinh vật có ích. Pheremon giới tính có tiềm năng cao trong việc dẫn dụ sâu tơ và sâu khoang. Trong 1 ngày đêm, 1 bẫy có thể thu được từ 9,3-73,8 trưởng thành sâu tơ, 6-37,3 trưởng thành sâu khoang. Thời gian tồn tại hiệu lực của Pherenmon sâu tơ là 21-28 ngày, của sâu là 20-16 ngày.

Nghiên cứu phát triển và ứng dụng các thuốc trừ sâu sinh học có nguồn gốc từ tuyến trùng

Có hàng ngàn loài côn trùng là ký chủ của tuyến trùng. Một số loài tuyến trùng côn trùng đã được nghiên cứu tạo nên chế phẩm sinh học để phòng chống sâu hại. Công việc nghiên cứu của tuyến trùng côn trùng được bất đầu từ năm 1997 tại Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, đã phân lập được 22 chủng tuyến trùng thuộc giống steinernemavà 11 chủng thuộc giống heterorhabditis. Trong đó có 8 chủng diệt sâu hại tốt, 4 chế phẩm sinh học trừ sâu hại được phát triển từ tuyến trùng: Boistar-1 (chủng S-TK 10), Biostar-2 (chủng S-CTL), Biostar-3 (chủng (H-HP 11), Biostar-4 (chủng H-NT3). Hiệu lực các chế phẩm sinh học từ tuyến trùng đối với sâu xanh Helicoverpa armigera,sâu khoang Spodoptera litura, sâu xanh bướm trắng Pieris rapae, sâu tơ Plutella xylostellađạt 63-100%.

Tuyến trùng ký sinh gây bệnh cho côn trùng thuộc hai giống SteinernemaHeterorhabditis.Cơ chế tác động của tuyến trùng trên cơ sở cộng sinh với vi khuẩn gây bệnh (thuộc hai giống Xerorhabdus và Photorhabdus) tạo nên tổ hợp ký sinh gây bệnh nermatore/bacterium. Trong đó tuyến trùng ký sinh và mang theo vi khuẩn cộng sinh vào trong cơ thể côn trùng, vi khuẩn đóng vai trò sản sinh độc tố để gây bệnh và giết chết côn trùng.

Nghiên cứu phát triển và ứng dụng của thuốc thảo mộc trừ sâu hại

Là một nước nhiệt đới, thành phần cây độc ở nước ta khá phong phú. Theo nghiên cứu, hiện nước ta có tới 53 loài cây độc có thể khai thác sử dụng làm thuốc thảo mộc trừ sâu hại, trong đó có nhiều loài cây độc có độc tính cao, dễ trồng và khai thác, triển vọng nhất là các cây dây mật, cây thanh hao, cây củ đậu, cây xoan Ấn Độ (Neem), cây ruốc cá, cây trẩu, cây sở v.v…

Sản phẩm thuốc thảo mộc được ứng dụng rộng rãi nhất là từ hạt Neem. Từ năm 2002, Hiệp hội rau quả Đà Lạt đã phối hợp với Trung tâm Nghiên cứu hóa sinh ứng dụng Tp. Hồ Chí Minh nghiên cứu thành công các hoạt chất limonoid trong hạt, là cành cây Neem và điều chế ra được 3 loại thuốc BVTV là Neemcide 3000EC, Neemcide 3000 SP, Neemcide 3000 ES để xua đuổi gây ngán ăn và diệt côn trùng phá hoại cây trồng và kho lương thực phẩm. Việc sản xuất thuốc trừ sâu sinh học cũng đã được nhiều công ty sản xuất thuốc BVTV quan tâm nghiên cứu và đưa vào (VIPESCO) đã sử dụng hạt cây Neem trồng ở Ninh Thuận để sản xuất thuốc trừ sâu 1500EC và 5000EC có tác dụng diệt trừ các loại sâu xanh, sâu cuốn là nhỏ, nấm và vi khuẩn gây bệnh cho lúa và các loại cây trồng khác. Trung tâm Nghiên cứu hóa sinh ứng dụng Tp. Hồ Chí Minh, Nông trường trồng Neem Ninh Thuận và Trung tâm Nông học dược Tp. Hồ Chí Minh đã hợp tác nghiên cứu sản xuất thuốc trừ sâu Limo 3000BR có khả năng diệt 80-90% mọt hại sau 21 ngày xử lý.

Như vậy có thể thấy kể từ năm 1990 trở lại đây, việc nghiên cứu và ứng dụng các chế phẩm sinh học trong BVTV đã được Nhà nước và các cơ quan khoa học quan tâm đầu tư và có kết quả bước đầu. Tuy nhiên, việc triển khai sản xuất và ứng dụng trong sản xuất còn nhiều trở ngại, do đó mức độ sử dụng vẫn hạn chế. Cho đến năm 2005, tỷ trọng thuốc BVTV sinh học vẫn chỉ chiếm dưới 5% so với tổng lượng thuốc BVTV sử dụng trong sản xuất.

Các yếu tố chính cản trở quá trình sản xuất và sử dụng thuốc sinh học là:

- Chưa đầu tư thỏa đáng cho việc nhập dây chuyền sản xuất, do đó các dây chuyền sản xuất thường lạc hậu, quy mô nhỏ, giá thành cao, khó cạnh tranh với sản phẩm ngoại nhập, đặc biệt là từ Trung Quốc.

- Chưa có quy trình tách triết, lên men và sản xuất ổn định, do đó chất lượng sản phẩm thường không ổn định, độc tố thường bị giảm sau một số lần sản xuất.

- Các sản phẩm sinh học thường có tính chuyên tính cao, do đó phổ tác động hẹp, phát huy hiệu lực chậm và thấp, không ổn định do bị ảnh hưởng của nhiều yếu tố ngoại cảnh và điều kiện sử dụng nên không được nông dân ưa dùng bằng thuốc hóa học.

- Các sản phẩm sinh học đều được sản xuất từ sinh vật sống, do đó có đặc tính kỹ thuật cao, trong khi hiện vẫn chưa có hướng dẫn và quy trình ứng dụng đồng bộ, kiến thức của người dân cũng còn nhiều hạn chế từ đó cản trở việc sử dụng.

- Giá thành thuốc sinh học cũng cao hơn thuốc hóa học từ 1,5 đến 2 lần, do đó chỉ có thể sản xuất khi tạo ra được sản phẩm an toàn và được thị trường chấp nhận theo đúng giá trị thực của nó, có như vậy mới khuyến khích được nông dân tham gia ứng dụng.

Để khắc phục những nhược điểm của các thuốc sinh học truyền thống (sản xuất từ dây chuyền lên men vi sinh vật sống), gần đây trên thế giới đã nghiên cứu và phát triển thành công một số thuốc sinh học thế hệ mới được sản xuất theo quy trình chiết xuất các độc tố của vi sinh vật như nấm, xạ khuẩn hay hoạt chất độc của các loài cây độc. Nhờ công nghệ này cho phép tạo ra sản phẩm có phổ tác rộng hơn, hiệu lực cao và ổn định hơn cũng như giá thành hạ hơn do có thể sản xuất ở quy mô hàng hóa lớn. Trong số đó có một số sản phẩm tiêu biểu như:

+ Hoạt chất Abamectin: là sản phẩm được chiết xuất từ độc tố của xạ khuẩn (hay nầm tia) (Steptomyces avermitilis)tồn tại trong đất. Hợp chất này chứa 80% avermectinB1a và 20% avermectinB1b, được sử dụng trừ sâu và nhiện hại.

+ Hoạt chất Emamectin benzoate: là một thuốc trừ sâu thuộc nhóm Avermectin, có thể thấm sâu vào trong tế bào lá thực vật, các loài sâu miệng chích hút và nhện hại.

+ Hoạt chất Abamectin + dầu khoáng + dầu hoa tiêu.

+ Hoạt chất Azadirachtin: hoạt chất được chiết suất từ cây neem (Xoan Ấn Độ), có độc tính cao, trừ được nhiều đối tượng hại kể cả côn trùng và nhện hại.

+ Hoạt chất Bt + Virus: hỗn hợp hai loại sinh vật virus (NPV) và vi khuẩn Bacilusthuringiunsis var kurstaki, có tác dùng trừ nhiều sâu thuộc bộ cánh vảy.

+ H oạt chất Ninnamycin: là sản phẩm có khả năng hạn chế một số bệnh hại trên cà chua, dưa chuột, bầu bí như bệnh phấn trắng.

+ Hoạt chất Streptomycin sulfatelà hoạt chất có khả năng trừ bệnh héo xan vi khuẩn, thối nhũn cải bắp và nhiều đối tượng cây trồng khác.

Ở nước ta, để đẩy nhanh việc ứng dụng các sản phẩm sinh học vào sản xuất, Bộ NN&PTNT đã có chính sách ưu tiên trong việc đăng ký thương mại sản phẩm, do đó lượng thuốc sinh học được đăng ký sử dụng ở Việt Nam ngày càng tăng và chủng loại ngày càng phong phú. Theo danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng ở Việt Nam đến tháng 6/2007, đã có 150 hoạt chất trừ sâu sinh học (kể cả đơn chất và hợp chất) với 560 tên thương mại trong tổng số 696 hoạt chất và 2.123 tên thương mại (chiếm lần lươt là 21,55% và 26,37%) đã được đăng ký sử dụng ở Việt Nam. Chỉ trong 6 tháng đầu năm 2007 đã có 193 loại thuốc trừ sâu sinh học được đăng ký vào danh mục.

Bên cạnh sự gia tăng về chủng loại, lượng thuốc sinh học được đưa sử dụng cũng đã tăng lên một cách đáng kể. Nếu trong giai đoạn 2000-2005, chỉ có dưới 1% thuốc trừ sâu sinh học trong tổng số thuốc BVTV được sử dụng tại Việt Nam thì tới năm 2006 con số này xấp xỉ 5%, đến năm 2007 là 7,58%. Trong đó, thuốc trừ sâu chiếm ưu thế hơn hẳn (70,86%), thuốc trừ bệnh chỉ tập trung vào 3 loại chất là Kasugamycin, Validacin và Ningamycin với tổng lượng chiếm 29,14%.

Do nhận thức được ưu điểm nổi bật của thuốc trừ sâu sinh học là ít độc, an toàn, góp phần tạo ra sản phẩm an toàn nên hiện nay việc sử dụng chúng trong sản xuất rau đã được nhiều nông dân quan tâm. Kết quả điều tra cho thấy: có bình quân 75,17% số hộ nông dân ở vùng đồng bằng sông Hồng đã biết đến và ít nhất một lần sử dụng thuốc trừ sâu sinh học. Trong đó, Hà Nội và Hải Dương là hai địa phương có số hộ sử dụng cao nhất 980% và 84%). Các địa phương khác có tỷ lệ số hộ sử dụng từ 65-84%. Tuy nhiên, do vẫn còn nhiều trở ngại về hiệu quả trừ sâu, giá thành và thói quen trong sử dụng, tỷ lệ thuốc sinh học được ứng dụng trong sản xuất vẫn còn rất thấp.

3. Giải pháp đẩy mạnh việc sản xuất và ứng dụng các sản phẩm sinh học phục vụ sản xuất nông sản an toàn

Để đẩy mạnh việc ứng dụng các sản phẩm sinh học vào sản xuất nông sản an toàn, Bộ NN&PTNT và Bộ KH&CN đã thông qua " Chương trình xây dựng mô hình ứng dụng khoa học công nghệ phục vụ phát triển nông thôn, miền núi từ nay đến năm 2010". Bộ KH&CN cũng đã hỗ trợ các địa phương thực hiện một số dự án chuyển giao TBKT và ứng dụng sản phẩm sinh học phục vụ sản xuất nông sản an toàn như: Dự án " Ứng dụng các sản phẩm sinh học BVTV để xây dựng vùng sản xuất rau an toàn", Dự án " Xây dựng mô hình ứng dụng thuốc BVTV sinh học để xây dựng vùng sản xuất rau an toàn tại Vĩnh Phúc". Qua thời gian đầu thực hiện, các dự án đã thu được nhiều kết quả quan trọng như:

- Lựa chọn các sản phẩm phù hợp, có hiệu quả kỹ thuật cao cho từng đối tượng dịch hại và từng loại cây trồng.

- Đánh giá được các yếu tố tác động đến hiệu quả của các sản phẩm sinh học và giải pháp khắc phục, từ đó góp phần hoàn thiện quy trình ứng dụng đồng bộ các sản phẩm sinh học để có thể nhân rộng sử dụng một cách bền vững.

- Xây dựng được các mô hình ứng dụng sản phẩm sinh học để sản xuất RAT theo chu trình khép kín từ sản xuất đến tiêu thụ theo hướng dẫn thực hành tốt GAP. Qua các mô hình đã khẳng định các thuốc sinh học có thể thay thế 60-70% thuốc hóa học, điều này đặc biệt có ý nghĩa trong việc phòng trừ dịch hại ở giai đoạn cận thu hoạch và giai đoạn thu hoạch (với các loại rau gối lứa), tạo điều kiện thuận lợi cho công tác giám sát, cấp chứng chỉ sản phẩm, nâng cao được uy tín, gia trị của sản phẩm trên thị trường, tăng thêm thu nhập cho người sử dụng.

Các kết quả bước đầu cũng cho thấy, nhà nước cần có giải pháp đồng bộ hơn để đẩy nhanh việc sản xuất và ứng dụng các sản phẩm sinh học BVTV phục vụ sản xuất nông sản an toàn, cụ thể:

* Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc ưu tiên đăng ký sản phẩm, hỗ trợ tiếp nhận công nghệ và vay vốn để xây dựng các dây chuyển sản xuất sản phẩm sinh học trên quy mô lớn ngay trong nước nhằm ổn định chất lượng và hạ giá thành.

* Có chính sách hỗ trợ và ưu đãi các doanh nghiệp đầu tư khai thác các nguồn nguyên liệu tại chỗ đặc biệt là các nguồn có lợi thế như các loại cây độc làm thuốc thảo mộc (ruốc cá, trầu, sở, xoan ta, xoan Ấn Độ) hay khai thác các nguồn phụ phẩm như bã sở, hạt chè để sản xuất thuốc sinh học.

`* Song song với việc đẩy mạnh ứng dụng các thuốc BVTV sinh học cũng cần đầu tư nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao TBKT trong việc ứng dụng các sản phẩm phân bón sinh học để đảm bảo các chỉ tiêu an toàn thực phẩm khác có liên quan như dư lượng kim loại nặng hay nitrat. Có như vậy mới thúc đẩy được thị trường tiêu thụ sản phẩm, từ đó thúc đẩy việc ứng dụng các sản phẩm sinh học BVTV.

* Mở rộng phạm vi nghiên cứu và ứng dụng sản phẩm sinh học sang các cây trồng khác đặc biệt là các cây trồng nhạy cảm với an toàn thực phẩm như chè, cây ăn quả… để thúc đẩy thị trường tiêu thụ sản phẩm sinh học.

* Tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức và kiến thức cho nông dân. Đồng thời xây dựng chương trình đồng bộ từ trung ương đến địa phương để hỗ trợ xây dựng và nhân rộng các mô hình ứng dụng sản phẩm sinh học.

4. Kinh nghiệm trong việc triển khai thực hiện dự án phát triển công nghệ sản xuất và ứng dụng các chế phẩm sinh học trên địa bàn nông thôn miền núi.

Sản xuất và ứng dụng các sản phẩm sinh học đòi hỏi phải có trình độ công nghệ cao, có kiến thức và hiểu biết đầy đủ về đặc thù cũng như phạm vi ứng dụng, đồng thời các sản phẩm sinh học cũng thường có giá thành cao hơn, khó thu hút việc ứng dụng của nông dân ở các vùng nông thôn, đặc biệt là vùng miền núi. Do đó, để phát triển công nghệ sản xuất và ứng dụng các chế phẩm sinh học trên địa bàn nông thôn miền núi, đồng thời duy trì bền vững việc ứng dụng sản phẩm sinh học sau khi dự án kết thúc, có một số kinh nghiệm như sau:

* Phải lựa chọn và xác định được các công nghệ sản xuất hay sản phẩm phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và lợi thế vùng, phải lấy giá trị sản phẩm đầu ra để quyết định việc lựa chọn sản phẩm đầu vào.

* Phải nâng cao được kiến thức và hiểu biết cần thiết cho chính cán bộ làm công tác chuyển giao và tiếp nhận công nghệ, đồng thời lựa chọn các hộ tham gia phải có trình độ học vấn nhất định để có khả năng tiếp nhận và nhân rộng công nghệ hay kiến thức sử dụng sản phẩm.

* Trong điều kiện cho phép, cần gắn kết dự án sản xuất sản phẩm sinh học với các dự án sản xuất sản phẩm sinh học khác như phân bón hữu cơ sinh học để có thể tận dụng các phụ phẩm nông nghiệp hay phối hợp giữa các sản phẩm với nhau tạo ra sản phẩm phân bón chức năng trừ sâu nhằm hạ giá thành sản phẩm.

* Việc triển khai xây dựng mô hình không nên dàn trải theo số đông hay quy mô diện tích mà cần tạo ra các điểm nhấn thực sự, nhất thiết phải gắn liền dự án ứng dụng sản phẩm sinh học với sản xuất nông sản an toàn theo chu trình khép kín, phải hình thành được mạng lưới tổ chức sản xuất, giám sát, cấp chứng chỉ và tổ chức tiêu thụ sản phẩm để nâng cao giá trị của nông sản, từ đó khuyến khích nông dân tham gia ứng dụng sản phẩm sinh học.

Xem Thêm

Nghiên cứu, thử nghiệm và nhân rộng các mô hình kinh tế xanh
Chính phủ yêu cầu thực hiện hiệu quả Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021- 2030, tầm nhìn 2050. Đồng thời nghiên cứu, thử nghiệm và nhân rộng các mô hình kinh tế xanh, đô thị, nông thôn xanh; thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng bền vững...

Tin mới

Thanh Hoá: Tập huấn Bình dân học vụ số cho cán bộ, hội viên
Ngày 22/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa tổ chức Hội nghị tập huấn về Công nghệ số ứng dụng trong sản xuất và đời sống (Bình dân học vụ số) cho gần 200 cán bộ, hội viên của các hội thành viên, trung tâm trực thuộc, đơn vị liên kết trong hệ thống Liên hiệp hội.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Tiền Giang: Họp mặt và vinh danh trí thức KH&CN
Ngày 20/5, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Tiền Giang phối hợp Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức họp mặt trí thức KH&CN và vinh danh 2 trí thức được phong hàm Phó Giáo sư, 8 trí thức được công nhận học vị Tiến sĩ.
ĐẨY MẠNH HỢP TÁC VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI NHÂN DÂN TRONG HỆ THỐNG LIÊN HIỆP HỘI VIỆT NAM
Sáng ngày 13/5/2025 tại tỉnh Sóc Trăng, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) đã phối hợp với Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Sóc Trăng tổ chức Hội thảo “Xúc tiến hợp tác và chia sẻ kinh nghiệm hoạt động đối ngoại nhân dân trong hệ thống Liên hiệp hội Việt Nam”.
VUSTA đóng góp cho Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 2013 và Dự thảo Luật KHCN & ĐMST
Dù chỉ sửa đổi một số điều của Hiến pháp năm 2013, đội ngũ trí thức Liên hiệp Hội Việt Nam nhấn mạnh tính cấp thiết và chiều sâu cải cách, từ mô hình chính quyền hai cấp đến quy định cụ thể cấp hành chính, làm rõ vị trí tổ chức chính trị - xã hội...