Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ sáu, 23/09/2011 18:37 (GMT+7)

Tự do thông tin trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

1. Bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và ý nghĩa của tiếp cận thông tin

Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam đã thể chế hóa chế độ Nhà nước pháp quyền, trong đó những đặc trưng cơ bản là tính công khai, minh bạch. quyền bình đẳng và quyền được biết của người dân được tôn trọng. Đó là cơ sở pháp lý quan trọng nhất cho xã hội phát triển. Những năm qua, hệ thống thực thi dân chủ và hệ thống pháp lý ở Việt Nam đã được cải cách đáng kể nhằm, một mặt, khắc phục cơ chế quản lý hành chính quan liêu, tạo ra một xã hội cởi mở hơn, dân chủ hơn; mặt khác, nhằm huy động tối đa nguồn lực cho xã hội phát triển.

Quyền tự do tư tưởng, ngôn luận, báo chí và quyền được thông tin là những quyền con người, đồng thời là những quyền công dân cơ bản - những quyền hiến định vốn có của một xã hội dân chủ, đồng thời cũng là một chuẩn mực bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân. Quyền được thông tin là một trong những hình thức, phương thức, phương tiện để nhân dân làm chủ đất nước, thật sự tham gia vào quản lý nhà nước và quản lý xã hội. Nó có vai trò chính trị - xã hội quan trọng: vừa là quyền được hưởng, vừa là tiền đề để bảo đảm thực hiện các quyền cơ bản bao gồm các quyền: dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa. Quyền quan trọng này được ghi nhận tại Điều 19 của Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948, Công ước quốc tế về các Quyền dân sự và chính trị của Liên hợp quốc năm 1966. Bảo đảm quyền được thông tin cũng đã được Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Điều 69 Hiến pháp Việt Nam năm 1992 ghi rõ: "Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin theo quy định của pháp luật".

Theo quy định của Hiến pháp và các đạo luật ở Việt Nam, công dân được hưởng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền được thông tin, hội họp, lập hội và biểu tình theo quy định của pháp luật. Cùng với quá trình cải cách và mở rộng dân chủ, nhu cầu sử dụng các quyền này cũng ngày càng hiện thực hơn, cấp thiết hơn. Bằng chứng là người dân đã gửi đề xuất, kiến nghị ngày càng nhiều lên các cơ quan có thẩm quyền và đồng thời hàng ngày bày tỏ các mối quan tâm, bức xúc đến các cơ quan Đảng và Nhà nước.

Các quyền chính trị đã được cải thiện đáng kể nhiều năm qua kể từ khi đổi mới, và hiện nay các quyền công dân về cơ bản đang phản ánh rõ nét những quyền cơ bản và phổ biến theo Công ước về các Quyền dân sự và chính trị của Liên hợp quốc, thông qua các quy trình xây dựng chính sách và pháp luật được thực hiện có sự tham gia của người dân. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã được đổi mới căn bản theo hai hướng đó. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn nhiều mặt yếu kém về khung thể chế đối với phát triển pháp lý toàn diện: Chất lượng của các luật vẫn còn yếu và không đồng nhất, quá trình xây dựng các văn bản pháp quy chưa khuyến khích được sự tham gia của các cơ quan nhà nước liên quan, các chuyên gia và các tổ chức phi chính phủ (NGOs) trong nước.

Tại đề án nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật của Chính phủ ban hành kèm theo Quyết định số 933/2004/QĐ-TTg ngày 27 tháng 8 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ đã chỉ ra một số yếu tố làm giảm chất lượng xây dựng pháp luật như: Tính cục bộ, chỉ nhằm bảo vệ lợi ích của một số ngành thể hiện rõ trong việc xây dựng, trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua các dự án. Bộ, ngành nào cũng muốn kéo theo quyền, lợi ích và thuận lợi về phía mình khi xây dựng luật, pháp lệnh, đồng thời đẩy những khó khăn, vướng mắc cho Chính phủ. Tình trạng này dẫn đến "xung đột" thẩm quyền giữa các Bộ, ngành khi triển khai thực hiện luật, pháp lệnh làm cho văn bản hướng dẫn thi hành văn bản luật, pháp lệnh chậm được ban hành. Thiếu cơ chế huy động sự tham gia đóng góp ý kiến của các nhà khoa học, nhà quản lý và các chuyên gia giàu kinh nghiệm trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước, các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp và nhân dân vào các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Chưa tham khảo triệt để ý kiến của nhân dân và các doanh nhân, các đoàn thể, hội nghề nghiệp, cũng như ý kiến của các đối tượng chịu sự điều chỉnh trực tiếp hoặc gián tiếp của các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Việc "tự biên, tự diễn" đó đã kéo dài tình trạng một số dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật thiên về dành thuận lợi cho cơ quan quản lý nhà nước, trái với xu thế cải cách hành chính. Nhiều dự án, dự thảo sau khi được Chính phủ thảo luận đã nhận được phản ứng khá gay gắt từ phía dư luận, xã hội. Chẳng hạn như dự án Luật Khiếu nại, tố cáo; Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Giáo dục, Luật Đầu tư, Luật Trợ giúp pháp lý v.v.

Như vậy, tính khép kín của cơ chế hoạt động quản lý nhà nước mà cụ thể qua những ví dụ về hoạt động xây dựng pháp luật đã cho thấy, là một cản trở lớn đối với chính hoạt động lãnh đạo, quản lý và điều hành của các cơ quan nhà nước. Phá vỡ thế khép kín, cách làm "tự biên, tự diễn" đó chỉ có thể bằng cách tạo ra những hành lang mở và linh hoạt hướng tới sự tham gia đại diện của dân chúng và các tổ chức của họ. Đã có nhiều bước cải cách hệ thống hành chính sao cho hiệu quả hơn và dễ tiếp cận hơn đối với công chúng, chẳng hạn việc áp dụng thành công cơ chế một cửa để công dân thực hiện các thủ tục hành chính liên quan đến các vấn đề đất đai và xã hội. Chính phủ điện tử đang có nhiều bước phát triển với số lượng truy cập ngày càng tăng vào các trang web và văn bản của Chính phủ.

Liên quan trực tiếp đến quyền được thông tin, có thể nói rằng các luật và nghị định được công bố trên Công báo phiên bản tiếng Việt và tiếng Anh và các sách khác từ đầu những năm 1990. Tuy vậy, sự dễ dàng tiếp cận của các cá nhân công dân còn bị hạn chế. Tình hình đã được cải thiện trên một số khía cạnh: các kênh truyền hình đã thường xuyên truyền hình trực tiếp các kỳ họp Quốc hội và báo chí đang ngày càng viết nhiều về các cuộc thảo luận trong quá trình xây dựng các dự án luật và các luật đã được Quốc hội thông qua. Việc áp dụng Chính phủ điện tử và các trang web hỗ trợ việc tiếp cận với các tài liệu của Chính phủ qua internet. Trong những năm gần đây, ngân sách nhà nước một phần được công bố và có thể tiếp cận được. Tuy nhiên, internet chỉ giúp ích cho người dân thành thị thạo về máy tính. Việt Nam được kết nối với mạng toàn cầu vào năm 1997, và đã phát triển nhanh chóng ở thành phố và gần đây là một số trung tâm ở vùng ngoại ô và các bưu điện của thị trấn tại 63 tỉnh, thành. Hàng nghìn quán café internet đã được mở trên cả nước.

Ở Việt Nam, các phương tiện truyền thông đại chúng rất phong phú với nhiều loại báo, tạp chí, tập san, nhiều kênh truyền hình và phát thanh ở trung ương và địa phương, dịch vụ internet đang rất lớn mạnh. Số lượng các tờ báo, nhất là các tờ báo điện tử đã tăng hàng năm. Tự do báo chí đã được đảm bảo bởi Hiến pháp.

Các hình thức đối thoại giữa các tổ chức xã hội dân sự và các cơ quan Chính phủ rất đa dạng và ảnh hưởng trực tiếp đến Quốc hội, chẳng hạn đưa ra các kiến nghị về luật liên quan đến chuyên môn của tổ chức mình.

Hiến pháp 1992 quy định về đại biểu Quốc hội có trách nhiệm phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, thu thập và phản ánh trung thực ý kiến và nguyện vọng của cử tri với Quốc hội và các cơ quan nhà nước hữu quan: thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri về hoạt động của mình với Quốc hội; trả lời những yêu cầu và kiến nghị của cử tri; xem xét, thực hiện các quyền đó. Ngoài ra, Hiến pháp cũng quy định: đại biểu Quốc hội phải dành thời gian để làm nhiệm vụ đại biểu. Quy định này nhằm khắc phục thực tế đại biểu Quốc hội hoạt động kiêm nhiệm dành nhiều thời gian cho công việc của mình mà không dành thời gian cho nhiệm vụ đại biểu.

Mục đích của việc thu thập ý kiến, nguyện vọng của cử tri do đại biểu Quốc hội thực hiện nhằm mục đích chính là phản ánh ý kiến, nguyện vọng của cử tri đó với Quốc hội và các cơ quan có liên quan, qua đó, Quốc hội nắm được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân để ban hành pháp luật và các quyết định quan trọng của đất nước phù hợp với ý chí của nhân dân. Tuy nhiên, trên thực tế, vì cách thu thập chưa thực sự có hiệu quả nên hoạt động phản ánh tâm tư, nguyện vọng của cử tri do đại biểu Quốc hội thực hiện tới Quốc hội và các cơ quan có liên quan chưa đảm bảo là sự phản ánh trung thực. Thực tế đó dẫn đến hiện tượng nhiều đại biểu thay bằng phản ánh nguyện vọng của cử tri thì lại phản ánh ý chí chủ quan của mình tới Quốc hội và cơ quan có liên quan. Bên cạnh đó, có nhiều đại biểu Quốc hội nắm được tâm tư, nguyện vọng của cử tri song không phản ánh tới Quốc hội và cơ quan nhà nước hữu quan. Nguyên nhân của tình trạng này được phân làm hai loại chính. Loại thứ nhất, do đại biểu Quốc hội không có năng lực phản ánh tới Quốc hội và cơ quan có thẩm quyền. Khi viết báo cáo, khi phát biểu trong phiên họp toàn thể, những đại biểu Quốc hội này hầu như không thể hiện ý kiến nào. Loại thứ hai là do đại biểu Quốc hội không phản ánh vì ý nguyện của cử tri và ý chí của đại biểu Quốc hội không thống nhất. Trên thực tế, còn có những đại biểu Quốc hội ngại phản ánh ý chí của cử tri vì sợ làm mất lòng cấp trên. Bên cạnh đó, có một số đại biểu Quốc hội còn tâm lý ngại tiếp xúc cử tri, do nhiều lý do, trong đó một phần do đại biểu đó trong hoạt động của mình chưa phản ánh được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân đến các cơ quan có thẩm quyền. Có nhiều đại biểu khi gặp gỡ cử tri để thu thập ý kiến, được cử tri gửi gắm tâm tư, nguyện vọng nhất là trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo nhưng nguyện vọng của cử tri không được giải quyết thỏa đáng nên rất ngại gặp lại cử tri đó. Các đại biểu Quốc hội cũng chưa đầu tư nghiên cứu kỹ các ý kiến, kiến nghị của cử tri ở địa phương mình cũng như ở địa phương khác từ kỳ họp trước và việc trả lời kết quả giải quyết của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Do đó, có nhiều kiến nghị của cử tri đã được giải quyết rồi vẫn được đại biểu Quốc hội tập hợp và gửi đến Quốc hội. Thực trạng này làm cho hoạt động thu thập ý kiến của cử tri do đại biểu Quốc hội thực hiện chưa thực sự phát huy hiệu quả.

2. Vai trò của quyền tiếp cận thông tin đối với tiến trình phát triển đất nước

Ở hầu khắp các nước và các tổ chức quốc tế đều có chung một nhận thức rằng tự do thông tin là một quyền cơ bản của con người. Thực hiện được quyền này cho phép cá nhân có thể bảo vệ hữu hiệu các quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình, ngăn ngừa và chống lại các hành vi lạm dụng, thúc đẩy dân chủ hóa và minh bạch hóa quá trình hoạch định chính sách và ban hành pháp luật, củng cố lòng tin và tăng cường sự ủng hộ của dân chúng đối với các chủ trương và chính sách của chính quyền; tạo sự đồng thuận cao trong xã hội.

Do nhận thức về điều đó, ở nhiều nước quyền thông tin hay quyền được biết đã được quy định trong Hiến pháp như là một quyền hiến định cơ bản của công dân. Có hơn 90 quốc gia làm điều đó, đặc biệt trong những năm gần đây ở các quốc gia chuyển đổi như Đông Âu, Mỹ La-tinh.

Cụ thể hơn, một số nước như Pháp, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Pakistan coi quyền hiến định này là một thành tố cơ bản của quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí. Ở nhiều nước như Philippines coi đây là quyền hiến định và Tòa án tối cao đã ra phán quyết về khả năng áp dụng trực tiếp quy định của Hiến pháp; còn Thụy Điển, Canada, New Zeland thì nhấn mạnh là quyền tự do thông tin có vị trí cao hơn nhiều quyền công dân khác và tương ứng là các đạo luật về quyền tự do thông tin được xếp vào các loại đạo luật mang tính hiến pháp.

Quyền tự do thông tin là sản phẩm của nhân loại: ra đời và được thừa nhận vào thế kỷ XVIII trong kỷ nguyên ánh sáng bởi Luật Tự do báo chí năm 1776 của Thụy Điển và Hoa Kỳ trong Tuyên ngôn độc lập. Kế đó là Pháp trong Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền năm 1789, Hà Lan trong Tuyên ngôn nhân quyền 1795. Cụ thể, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1789 đã nói về nhu cầu và ý nghĩa của quốc gia tiếp cận thông tin về ngân sách: "Tất cả các công dân đều có quyền quyết định, tự mình hoặc thông qua nguồn đại diện, về sự cần thiết của các khoản đóng góp của nhân dân và quyền được biết về mục đích sử dụng các khoản này". Trong Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ có câu: "Ngăn cản một Chính phủ cởi mở là phá hoại các hoạt động dân chủ".

Có thể nói rằng, nhận thức của các xã hội và các Chính phủ ở các quốc gia về quyền tự do thông tin là một quá trình nhận thức từ hai phía - cả từ phía dân chúng và cả từ phía Nhà nước.

2.1. Nhận thức từ phía Nhà nước

Đối với các Chính phủ, nhu cầu hiện đại hóa hệ thống lưu trữ, xây dựng C Chính phủ điện tử, xây dựng xã hội thông tin đã trở thành nhu cầu thiết yếu trong việc quản lý và điều hành nhanh nhạy, có hiệu quả và vì vậy, tự do thông tin được các giới quản lý và lãnh đạo quốc gia đánh giá như là nhu cầu tự thân. Đó là cơ hội tốt để đổi mới cách thức điều hành của các cơ quan nhà nước, nâng cao hiệu quả điều hành, trên cơ sở thông tin nhận được và xử lý tốt từ phía xã hội.

Tuy nhiên, nếu nhìn nhận một cách kỹ hơn thì có thể thấy thêm một số yếu tố khác đã góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy nhận thức về tự do thông tin của các giới chức Chính phủ ở các nước:

- Nhu cầu về sự hiểu đúng và đầy đủ các chính sách của Nhà nước từ phía công chúng;

- Nhu cầu cân bằng khi lợi ích của các nhóm xã hội thông qua việc tiếp nhận thông tin về nhu cầu và về lợi ích phía các nhóm xã hội trong quá trình hoạch định chính sách;

- Củng cố sự đồng thuận xã hội;

- Tạo cơ sở cho sự giám sát của các đại biểu dân cử.

Nhưng công bằng mà nói, sự nhận thức đó không phải ở mọi nơi, mọi lúc đều có được. Ở các nước vẫn còn khái niệm "văn hóa giữ bí mật", nhiều nơi tựdo thông tin vẫn còn là danh nghĩa, nhiều đạo luật về tự do thông tin có mức độ áp dụng rất hạn chế do sự lạm dụng các phạm vi bí mật và cung cấp thông tin còn hạn chế; phí cung cấp thông tin ở một số nước khá cao, không phù hợp với khả năng và nhu cầu tiếp cận thông tin của tầng lớp nghèo và khó khăn trong xã hội, từ đó dẫn đến hiện tượng độc quyền thông tin hoặc đầu cơ thông tin. Ở nhiều nước vẫn chưa có các cơ chế độc lập để giám sát quá trình thực thi pháp luật về tự do thông tin và quyền tiếp cận thông tin. Đó cũng chính là những hiện tượng khá phổ biến khi nói về tình hình nhận thức và thực hiện tự do thông tin từ phía Chính phủ các nước.

Nhà nước Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân, vì dân và quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam là mở rộng dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tổ chức để nhân dân tham gia ngày càng rộng rãi hơn vào công việc quản lý đất nước theo phương châm: "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra". Để thực hiện phương châm đó, trước hết người dân cần được thông tin, được cung cấp thông tin, những thông tin khách quan, trung thực, đầy đủ, không bị cắt xén, kịp thời. Trên cơ sở được biết thông tin người dân mới bàn, đánh giá, kiến nghị lên các cơ quan nhà nước để hoàn thiện chính sách pháp luật, sau đó tự giác thực hiện và kiểm soát việc thực hiện. Không có thông tin phản hồi từ phía người dân, Nhà nước không đủ thông tin để có quyết định đúng, phù hợp với ý chí, lợi ích của nhân dân và khó có thể quản lý hiệu lực và hiệu quả. Mặt khác, người dân không được tiếp cận thông tin của Nhà nước thì khó tránh khỏi "đứng ngoài chính trị", không thể tham gia thực sự vào việc quản lý đất nước, quản lý xã hội. Quyền được thông tin của người dân là phương thức hữu hiệu gắn bó Nhà nước với người dân, khắc phục tệ quan liêu, hách dịch, nâng cao tính minh bạch của chính sách và tính hiệu quả của quản lý nhà nước.

2.2 Nhận thức từ phía công chúng hay là vấn đề vai trò của xã hội dân sự trong việc thúc đẩy quyền thông tin

Các yếu tố chủ yếu nhất trong nhận thức của công chúng ở các nước về tự do thông tin và quyền tiếp cận thông tin gồm có:

- Nhận thức về dân chủ: Đây là yếu tố thể hiện nhu cầu của người dân tham gia vào quá trình quản lý, đổi mới;

- Nhận thức về thông tin như một trong những nguồn lực xã hội, từ đó có nhu cầu về sự bình đẳng trong việc tiếp cận, sử dụng và khai thác nguồn lực quan trọng này của xã hội;

- Nhận thức về lợi ích từ sự tiếp cận và khai thác thông tin để giải quyết những vấn đề kinh tế, an ninh, xã hội hàng ngày; đấu tranh bảo vệ các quyền cơ bản và các quyền cụ thể khác của người dân;

- Nhận thức về thông tin như là cơ sở để đấu tranh chống tham nhũng, ngăn chặn các hành vi tham nhũng một cách hữu hiệu.

Chúng ta hiện đang sống trong thời đại cách mạng thông tin, kinh tế thông tin và xã hội thông tin. Thông tin là nhu cầu thiết yếu trong mọi hoạt động của đời sống xã hội, là công cụ để điều hành quản lý, lãnh đạo của mỗi quốc gia, là phương tiện hữu hiệu để mở rộng giao lưu, hiểu biết giữa các quốc gia dân tộc, là nguồn cung cấp tri thức, là nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội. Thông tin được coi là yếu tố quyết định cho cơ hội phát triển, thành đạt và tự chủ của mỗi quốc gia, tổ chức và mỗi con người. Sự bùng nổ thông tin ngày nay tạo ra nhiều thuận lợi cho sự phát triển mạnh mẽ nền dân chủ và bảo đảm các quyền con người, đồng thời cũng gây ra những nguy cơ mới xâm hại đến quyền con người. Do sự phát triển mạnh mẽ của các công nghệ thông tin, khối lượng thông tin ngày càng tăng nhanh gấp bội. Thay cho thời kỳ thiếu thông tin, là nguy cơ chìm trong đại dương thông tin phi kết cấu với chất lượng khác nhau. Trong số thông tin sản xuất ra hàng năm có đến 80% thông tin "rác": không đầy đủ, thiếu chính xác, thiếu trung thực, thậm chí có cả những thông tin "bẩn" - xuyên tạc, cực đoan, sai lệch với dụng ý xấu… Những thông tin đó gây phương hại lớn cho quyền và lợi ích của các cá nhân, Nhà nước và xã hội. Tất cả những điều đó đặt ra nhiều cơ hội và thách thức, đòi hỏi các Nhà nước phải xử lý những vấn đề mới về thông tin, quản lý thông tin, cung cấp thông tin, soạn thảo các luật để điều chỉnh các quan hệ trong lĩnh vực này nhằm quản lý đất nước, đảm bảo an ninh và quyền của công dân có hiệu quả hơn. Chính vì vậy, trong khoảng 20 năm gần đây nhiều quốc gia trên thế giới đã sửa đổi luật cũ hoặc ban hành các luật mới về thông tin, tiếp cận thông tin của mình, quy định rõ hơn các thông tin được tiếp cận và những thông tin bí mật không được tiếp cận, trách nhiệm bảo mật thông tin… tùy theo đặc điểm của từng nước, vì an ninh độc lập của đất nước, quyền và lợi ích của các công dân của mình.

Chính vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà ở hầu hết các quốc gia, sức ép từ phía công chúng, từ phía nhóm xã hội, của phương tiện thông tin đại chúng về hình thành các cơ chế giám sát việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin, là yếu tố quyết định cho sự ra đời các đạo luật về tiếp cận thông tin.

Xem Thêm

Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Lào Cai: Hội nghị triển khai nhiệm vụ trọng tâm năm 2026
Chiều 28/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh tổ chức hội nghị Ban Chấp hành nhằm đánh giá công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ năm 2025; thảo luận, thống nhất phương hướng nhiệm vụ trọng tâm năm 2026 và quyết định một số nội dung theo thẩm quyền.
Vai trò nòng cốt, quy tụ trí tuệ, kết nối nguồn lực của VAA trong điều khiển và tự động hóa
Ngày 27/12 tại Hà Nội, Hội Tự động hóa Việt Nam (VAA) long trọng tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, nhiệm kỳ 2025-2030. Với chủ đề “Tiếp nối - Phát triển”, Đại hội thể hiện rõ định hướng kế thừa, đổi mới và quyết tâm của VAA trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, nơi khoa học - công nghệ và tự động hóa giữ vai trò then chốt.
Gia Lai: Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tổng kết hoạt động năm 2025
Ngày 26/12/2025, tại phường Quy Nhơn, Hội nghị Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Gia Lai (Liên hiệp hội) lần thứ III đã diễn ra với sự tham dự của đại diện lãnh đạo Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, các ủy viên Ban Chấp hành, đại diện các đơn vị thành viên Liên hiệp hội.
Vĩnh Long: Tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành tổng kết hoạt động năm 2025 và phương hướng nhiệm vụ năm 2026
Sáng ngày 26/12, tại Hội trường Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị phường Phước Hậu, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long (Liên hiệp hội) tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành năm 2025. Hội nghị do Ban Thường vụ Liên hiệp hội tỉnh chủ trì, với sự tham dự của các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành và đại diện lãnh đạo các sở, ban, ngành liên quan.
Thanh Hóa: Tổng kết Hội thi Sáng tạo kỹ thuật cấp tỉnh lần thứ 14 (2024 - 2025)
Sáng ngày 25/12/2025, Ban Tổ chức Hội thi Sáng tạo kỹ thuật Thanh Hóa (Hội thi) tổ chức Lễ tổng kết và trao giải thưởng Hội thi lần thứ 14 (2024 - 2025). Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Phạm Ngọc Linh đã tham dự, phát biểu chúc mừng Ban Tổ chức Hội thi và các tập thể, cá nhân đạt giải tại buổi lễ.
Đắk Lắk: TS. Phan Xuân Lĩnh được bầu làm Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh
Ngày 25/12/2025, Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức Hội nghị về thực hiện quy trình công tác cán bộ. Tại Hội nghị, với 100% số phiếu nhất trí, Ban Chấp hành đã bầu TS. Phan Xuân Lĩnh tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk khóa I, nhiệm kỳ 2025 - 2030.
Khối Khoa học xã hội tổng kết công tác năm 2025
Sáng 23/12, tại Hà Nội, Khối Khoa học xã hội (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức hội nghị tổng kết hoạt động năm 2025 và đề ra nhiệm vụ thực hiện năm 2026. Đến dự có đại diện Thường trực Hội đồng Thi đua- Khen thưởng Liên hiệp Hội Việt Nam; lãnh đạo của các đơn vị thành viện thuộc Khối Khoa học xã hội.
Ông Bùi Trung Kiên được tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2025-2030
Chiều ngày 24/12, TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), đã tới dự và phát biểu chỉ đạo tại Đại hội đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hưng Yên (Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên) lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể Trung ương lần thứ I: Thống nhất trong đa dạng
Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể TƯ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 không chỉ là một dấu mốc về mặt tổ chức, mà còn mang ý nghĩa lịch sử, mở ra chặng đường phát triển mới cho công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong toàn khối. Đại hội thể hiện sâu sắc sự "thống nhất trong đa dạng" - đa dạng về hình thái các tổ chức đoàn trực thuộc và thống nhất về mục tiêu hành động.
Vĩnh Long: Tổng kết Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, Nhi đồng và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa
Sáng ngày 24/12/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, các đơn vị có liên quan tổ chức Hội nghị tổng kết và trao giải Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, nhi đồng tỉnh Vĩnh Long lần thứ XIV, năm học 2024-2025 và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa lần thứ X, năm 2024-2025.
Nhìn lại năm 2025: Những con số biết nói thể hiện sự đóng góp đối với xã hội từ các tổ chức KH&CN trực thuộc VUSTA
Năm 2025, các tổ chức KH&CN trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét, là minh chứng sinh động cho vai trò tiên phong của KHCN trong phụng sự xã hội. Hàng trăm đề tài, dự án KH&CN được triển khai hiệu quả đã lan tỏa giá trị thiết thực trong chăm sóc sức khỏe, xóa đói giảm nghèo, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường và phản biện chính sách.