Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ năm, 17/08/2006 20:00 (GMT+7)

Toán học Việt Nam

1.Toán học Việt Nam: Danh và thực

Rất nhiều người ở Việt Nam cho rằng nước ta có một nền toán học mạnh trên thế giới. Báo chí trong nước thậm chí từng viết “Việt nam là trung tâm toán học đứng thứ 10 thế giới “. Trên thực tế, Việt Nam có tộng cộng quãng trên 1000 cán bộ nghiên cứu giảng dạy về toán học (bậc đại học trở lên), trong đó chỉ có khoảng 300 người “tích cực nghiên cứu ”(có công trình khoa học trong mấy năm gần đây). Theo một thống kê của GS Phạm Duy Hiển (xem http:// www.tchdkh.org.vn/tchiter.asp?code=2033), trung bình các nhà toán học Việt Nam mỗi năm công bố tổng cộng quãng 100-200 bài báo khoa học trên tạp chí quốc tế (một phần lớn những bài báo đó đồng tác giả người nước ngoài). Tuy nhiên, số bài đăng ở các tạp chí “hạng cao”còn rất ít. Trong 3 năm 2003-2005, trong các tạp chí toán thuộc “top 10” chỉ có đúng 1 bài báo là của một người Việt làm toán trong nước, và nếu điểm qua 30 tạp chí thuộc loại uy tín nhất thì cũng chỉ tìm được quãng hơn một chục bài báo do các nhà toán học trong nước đăng trong 3 năm 2003-2005.

Để so sánh, Đại học Toulouse (một trung tâm cỡ vừa phải) có trên 100 cán bộ ngành toán, mỗi năm công bố hàng trăm công trình, trong đó có nhiều công trình trong các tạp chí “top 10”. Nếu tính về số lượng và chất lượng các công trình toán học thì cả nước Việt Nam (tính theo đóng góp và ảnh hưởng đến toán học thế giới) hiện tại chỉ hơn được một số nước Đông Nam Á, những nước rất lạc hậu ở Châu Phi, và một số nước rất ít dân.

Nền toán học Việt Nam tuy hiện tại còn chưa mạnh, nhưng so với trước đây thì đã tiến bộ rất nhiều. Trước thế kỷ 20, khái niêm “toán học” hầu như không tồn tại ở Việt Nam. Ai có may mắn được học hành, thì cũng học thơ phú, lễ nghĩa là chính. Có lẽ toán học Việt Nam duy nhất thời trước thế kỷ 20 có được thế giới nhắc đến là Lương Thế Vinh (1441-1496?) bởi ông có soạn cuốn sách giáo khoa “Đại Thành Toán Pháp”. Vào giữa thế kỷ 20 mới bắt đầu xuất hiện một vài tiến sỹ toán người Việt. Trong đó có GS Lê Văn Thiêm (bảo vệ Docteur d Etat ở Pháp năm 1949), người có công đầu trong việc xây dựng nền toán học hiện đại của Việt Nam. Từ giữa thế kỷ 20 đến nay, số lượng người Việt làm nghiên cứu toán tăng dần lên từ con số vài người lên đến hàng chục rồi hàng trăm người. Trong đó có một số ít người đã có tiếng trên thế giới, tiêu biểu là GS Hoàng Tuỵ và GS Ngô Việt Trung.

Có một số người được “dư luận quần chúng” cho là những nhà toán học tiêu biểu nhất Việt Nam nhưng lại có đóng góp khoa học ít hơn những người khác. Có người trình độ “làng nhàng” nhưng báo chí hay nhắc đến, bởi ngày trước có thành tích cao khi thi học sinh giỏi toán quốc tế. Có người được “lăng xê” thành nhà toán học hàng đầu từ khi chưa bảo vệ tiến sỹ. Có người được gắn danh là “người giải được bài toán thế kỷ” trong khi trong chuyên môn không ai đánh giá như vậy. Đặc biệt, có vị mang danh “viện sỹ nổi tiếng”, “một trong mấy trăm bộ óc vĩ đại nhất của thế giới ”, Tự so sánh “cống hiến khoa học” của minh ngang tầm với Lobachevsky, trong khi “công trình” của vị đó chẳng được ai trên thế giới quan tâm đến.

Những người làm khoa học thường có lòng tự trọng và trung thực trong khoa học. Nhưng cũng không hiếm những người Việt giả làm khoa học, “mua danh bán tước”. Hồi tôi còn ở Nga (1986-1991),có một anh (tốt nghiệp đại học trong nước) làm nghiên cứu sinh của khoa Toán Cơ trường Lomonoxop. Anh này học kém, đi thi tối thiểu bị thi lại, chủ yếu lo chuyện buôn bán, rồi “mua bằng” từ bằng TS đến bằng TSKH (doctor nauk), những người cùng khoa ai cũng biết chuyện. Thế rồi anh này về nước được “cơ cấu” vào chức lãnh đạo quản lý khoa học ở một nơi khá quan trọng. Những chuyện “cò gỗ mổ cò thật” như thế thật tai hại cho việc phát triển khoa học ở Việt Nam .

2. Nhu cầu phát triển toán học ở ViệtNam

Có một số người cho rằng những người làm toán là “ăn hại, tự sướng”. Suy nghĩ này có lẽ xuất phát từ sự hiểu biết hạn chế về toán học và ứng dụng của toán học. Ngay ở Pháp, ông cựu bộ trưởng giáo dục Claude Allegre từng phát biểu những câu như kiểu <<Les maths sont en train de se dévaluer de manière quasi ineluctable. Desormais, il y a des machines pour faire les calculs>> [France-soir, 29/11/1999]. (Tạm dịch là:”toán học ngày càng trở nên vô dụng; bây giờ đã có máy tính thay thế để tính toán”). Thực ra, máy tính không làm giảm giá trị của toán học, mà hỗ trợ cho toán học, làm phong phú thêm cho toán học. Bản thân máy tính không “hiểu” các khái niệm và công thức toán, chỉ giúp tính toán với công thức thuật toán có sẵn.

Ứng dụng của toán học hiện đại vào đời sống thường không trực tiếp, mà gián tiếp qua những khoa học, công nghệ khác, và bởi vậy nhìn bề ngoài khó thấy. Nhưng trong bất kỳ ngành nào cũng có thể chỉ ra các ứng dụng của toán học. (Nếu ai quan tâm, có thể tìm hiểu qua về ứng dụng của toán học trên trang web của “Hội toán công nghiệp và ứng dụng” Mỹ, http://www.siam.org). Không phải ngẫu nhiên mà các nước tiên tiến nhất trên thế giới cũng là những nước mạnh nhất về toán học, và nhiều hãng công nghệ lớn và các tập đoàn tài chính trên thế giới hay tuyển việc những người có bằng TS về toán.

Toán học có thể chia thành toán lý thuyết (hay có thể gọi là toán cơ bản) và toán ứng dụng, tuy không có biên giới rõ ràng giữa hai phần này. Toán ứng dụng nhằm phát triển các mô hình và phương pháp tính để phục vụ các ngành khác, còn toán cơ bản thì nhằm giải quyết các vấn đề “nội tại” của toán học. Toán ứng dụng dùng kết quả của toán cơ bản để phát triển, và nhiều vấn đề cơ bản có xuất phát điểm là các bài toán ứng dụng. Không phải kết quả toán lý thuyết nào cũng sẽ tìm được ứng dụng trong ngành khác, nhưng những kết quả thực sự cơ bản thì trước sau cũng sẽ có ứng dụng, và các thành tựu về toán lý thuyết, ngay cả khi không có “giá trị kinh tế” tức thời, thì cũng có giá trị như là thành tựu văn hoá của thế giới.

Thế giới cần đến toán học đã đành, nhưng Việt Nam còn nghèo nàn lạc hậu, có cần đến toán học không? Chưa có công nghệ hiện đại thì ứng dụng toán học vào đâu? Dưới đây, tôi muốn chỉ ra rằng việc phát triển toán học là rất cần thiết cho Việt Nam.

Trước hết, thử xét vai trò của toán học trong vấn đề giáo dục đào tạo. Các học sinh khi học phổ thông hay đại học mà giỏi toán thì sau này dễ thành đạt, trong bất cứ lĩnh vực nào, khoa học công nghệ, kinh doanh hay là quản lý. Học giỏi toán có nghĩa là có khả năng suy luận logic tốt, tính toán cẩn thận và kiên trì suy nghĩ khi gặp tình huống khó, nắm vững những khái niệm, nguyên tắc trừu tượng cơ bản để có thể áp dụng chúng vào những bài toán cụ thể. Những đức tính đó là yếu tố cho việc thành công. Để có học trò giỏi, một yếu tố quan trọng là cần có giáo viên có trình độ cao. Để có giáo viên toán có trình độ cao, thì những người đào tạo ra các giáo viên đó càng cần có trình độ cao,v.v.Trong mô hình hình tháp về nguồn nhân lực, ở trên đỉnh phải là các giáo sư tầm cỡ quốc tế, năm bắt được sự phát triển của toán học thời đại, tiếp đó là đội ngũ tiến sỹ có nghiên cứu khoa học (nếu không nghiên cứu khoa học hoặc ít ra là học tập trau dồi kiến thức thường xuyên, thì kiến thức sẽ mai một dần, trình độ ngày càng giảm), rồi đến các thạc sỹ, cử nhân, v.v.

Sinh viên đại học rất nhiều ngành khác nhau cần được học toán cao cấp ở một mức nào đó, vì nó cần thiết trong các ngành khác. Giáo viên dạy toán ở các trường đại học để có thể dạy tốt thì cần có trình độ cao hơn mức đại học. Riêng nhu cầu về giáo dục đào tạo của một nước với hơn 80 triệu dân như Việt Nam đã cần một lượng đáng kể tiến sỹ toán. Hiện tại Việt Nam mỗi năm thiếu quãng 50 tiến sỹ mới về toán học, trong vòng hai mươi năm tới, riêng cho việc nâng cấp các trường đại học. Đây là con số lớn so với lượng cử nhân toán ở VN có khả năng và nguyện vọng học làm TS.

Về mặt ứng dụng toán học, ngay trong thời kỳ chiến tranh chống Pháp chống Mỹ, đã có những người thuộc “làng toán Việt Nam:” có những đóng góp lớn cho đất nước (như trong tình báo, chế tạo vũ khí), Việt Nam có thành lập Hội Ứng dụng Toán học (trang web: http://www.vietsam. org.vn/), với sự tham gia của hàng trăm người. Để phát triển ứng dụng toán học, hàng năm Việt Nam cũng cần đào tạo được thêm nhiều TS toán mới.

Về mặt chiến lược, để “đi tắt”, Việt Nam có thể nhập công nghệ của nước ngoài ( ngay cả những nước tiên tiến cũng cần trao đổi và nhập công nghệ), nhưng để thành một nước tiên tiến hiện đại, sử dụng có hiệu quả các công nghệ hiện đại và tự mình làm được nhiều công nghệ hiện đại (ví dụ như Trung Quốc tự sản xuất tên lửa vũ trụ), thì cần một nền tảng khoa học cơ bản vững vàng. Để có thể phát triển thành một nước tiên tiến, nước ta cần đầu tư thích đáng cho toán học và các khoa học cơ bản khác. Hy vọng đó là tương lai của Việt Nam trong thế kỷ 21.

3. Vấn đề “cơm áo gạo tiền” của toán học ViệtNam

Việt Nam đầu tư về tiền của cho khoa học còn quá ít. Lương chính thức trung bình của cán bộ nghiên cứu giảng dạy khoa học quá thấp (dưới 1 triệu đồng một tháng), không đủ cho họ sống, nên họ làm nhiều việc “tay trái”, có rất ít thời giờ dành cho khoa học.

Để so sánh, lương của một GS toán ở Mỹ có thể trên một trăm nghìn đôla một năm, đủ để cho GS đó có một cuộc sống khá thoải mái về vật chất. Ngay ở nhiều nước đang phát triển như Brazil , Trung Quốc, Tunisie, v.v., lương của những người làm khoa học cơ bản khá cao (ít ra cũng được trên 1-2 ngàn đôla một tháng), đủ để cho họ cuộc sống mà không phải ngày nào cũng lo chuyện “cơm áo gạo tiền”, yên tâm mà làm việc.

Hồi tôi là sinh viên Khoa Toán Cơ trường Lômônôxốp ở Nga (1986-1991), trong khoa có hơn hai chục sinh viên và nghiên cứu sinh Việt Nam, nhưng đến nay may ra còn 1/3 trong số đó là theo nghề toán, số còn lại đã chuyển nghề, chủ yếu vì vấn đề “cơm áo gạo tiền”. Khi đi buôn hoặc làm những thứ khác ra tiền mà làm toán không ra tiền thì toán học dễ bị coi là vô dụng.

Giá thành sản phẩm của một công trình toán học (đăng thành một bài báo) trên thế giới ước tính tương đương với giá một chiếc ô tô, tức trung bình tốn quãng vài chục nghìn đô la để làm ra một công trình toán học. Ô tô xe sang có thể đắt gấp hàng chục lần xe làng nhàng, bài báo khoa học thì có những bài có giá trị gấp hàng trăm lần bài báo khác. Nhưng nói chung thì “tiền nào của đấy”. Ước tính giá thành sản phẩm của một bài báo đăng ở Vietnam Journal of Mathematics(tạp chí tuy nghiêm chỉnh nhưng không nằm trong danh sách 200 tạp chí toán uy tín nhất thế giới) quãng một-hai nghìn đôla (bằng tiền một cái xe máy). Chất lượng trung bình của một bài báo “giá thành 1000$” ắt hẳn khó so sánh với chất lượng của một bài báo “giá thành 5000$”.

Ở trong nước hay bàn về “nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu”, nhưng nếu không nâng cao đầu tư tiền của (trả lương xứng đáng với trình độ, tạo điều kiện làm việc tốt hơn), thì chuyện bàn bạc này tương đối viễn vông. Với lương chính thức có khi còn kém cả “lương ô-sin” mà vẫn đào tạo và nghiên cứu nghiêm chỉnh được thì mới là chuyện lạ. Nếu chất lượng chẳng ra làm sao thì dễ hiểu.

Hệ thống “lương ít lậu nhiều” ở Việt Nam là một trong những nguyên nhân đẻ ra nhiều tiêu cực. Không sống được bằng lương thì người ta có “mánh” để kiếm “bổng”. Giới toán học Việt Nam cũng đủ thông minh để nghĩ ra các “mánh”, chỉ có điều càng nhiều “mánh” kiếm tiền thì càng ít thời giờ cho khoa học, càng coi nhẹ việc nghiên cứu khoa học hay trau dồi kiến thức khoa học.

Các nước trên thế giới dành quãng 2-3%GDP (tổng sản phẩm quốc gia) cho phát triển khoa học công nghệ. (Ví dụ: Phần Lan 3,3%, Mỹ 2,7%, Trung Quốc 2%). Ở Việt nam, con số này hiện tại dưới 0,5%, quá thấp. (Năm 2005 nhà nước có trích quãng 2% ngân sách nhà nước cho khoa học công nghệ, nhưng chú ý là ngân sách nhà nước chỉ bằng phần nhỏ của GDP). Để khỏi tụt hậu thêm so với thế giới, Việt Nam cần tăng tỷ lệ ngân sách đầu tư cho khoa học lên ít ra 2-3 lần so với hiện tại.

Nếu như thu nhập bình quân ở Việt Nam bằng quãng một nửa thu nhập bình quân ở Trung Quốc (theo số liệu năm 2003, tính theo “purchasing power parity” thì “GDP per capital” của Trung Quốc gấp đôi việt nam : 5000$/năm so với 2500$/năm), thì cũng nên trả lương cho GS ở VN ít ra bằng một nửa lương ở Trung Quốc (tức là ít ra trên 500$/tháng).

4. Vấn đề chức danh bằng cấp ở ViệtNam

Hệ thống bằng cấp ở Việt Nam chủ yếu là do du nhập từ nước ngoài về. Nhưng vì nhập từ nhiều nguồn khác nhau (Nga, Pháp, Mỹ,v.v.., mỗi nước có một hệ thống khác nhau ), nên không đồng bộ, khó thống nhất, gây ra nhiều tranh cãi.

Về mặt học hàm cao cấp, ở Việt Nam có GS (dịch ra tiếng Anh thành full professor), PGS (associate professor), nếu không kể học hàm Viện sỹ. Nhưng ở Việt Nam không có Viện Hàn Lâm Khoa Học, nên cái danh viện sỹ dễ thật giả lẫn lộn. Có một số ít nhà khoa học Việt Nam được bầu làm viện sỹ của Viện hàn lâm Thế giới thứ ba (Third Word Academy of Sciences) hoặc viện sỹ nước ngoài của một vài viện hàn lâm danh tiếng trên thế giới. Nhưng cũng có những ‘viện hàn lâm vườn” chẳng ai nghe tên, hoặc như kiểu New York Academy of Sciences, cứ đóng tiền là được thành “viện sỹ” không cần qua bầu bán gì, và nhiều “viện sỹ” ở trong nước thuộc loại như vậy.

Chức danh GS ở Việt Nam khác xa chức danh professor ở phương Tây về mặt ý nghĩa nội dung. Ở phương Tây, chức danh nói chung đi đôi với công việc/trách nhiệm và lương bổng. Người ta tuyển việc GS, tức là khi có một chân GS trống ở một trường đại học thì người ta tuyển một người vào chân đó. Ở Việt Nam không quy định việc cụ thể cho GS, PGS, mà chỉ phong hàm GS, PGS cho những người đang ngồi tại chỗ, và thường phải “hói đầu hay bạc đầu” mới lên được PGS, GS bất kể tài năng ra sao. Học hàm GS, PGS ở Việt Nam là “danh hão”, không gắn liền trực tiếp tới trách nhiệm hay lương bổng.

Theo tôi biết, trong đợt phong PGS gần đây nhất, có người “làm toán” không có kết quả khoa học gì đáng kể nhưng cũng “sản xuất” được hai “bài báo khoa học” (đăng ở tạp chí không có phản biện nghiêm túc), cho đủ điểm khoa học để được phong PGS. Trong khi đó, có những TS trẻ trình độ cao ở Việt Nam , có nhiều bài báo khoa học có giá trị đăng trên các tạp chí quốc tế, phải “đợi còn lâu” mới lên được giảng viên chính hay PGS. Ở các nước tiên tiến tuổi trung bình khi nhận chức GS trong khoa học tự nhiên là quãng 40, trong khi ở Việt Nam người trẻ nhất trong đợt phong GS năm 2004 là 46 tuổi.

Việt nam nên có một cơ chế bầu (hay tuyển) PGS, GS gắn liền với khả năng khoa học thực sự (chú trọng hơn về thành tích khoa học và uy tín khoa học trên thế giới), trách nhiệm thực sự và lương bổng thực sự giống như nhiều nước khác thì sẽ tốt hơn so với kiểu “danh hão” và “sống lâu lên lão làng” hiện nay.

Về mặt học vị cao cấp, hiện nay ở Việt Nam có TS (tiến sỹ, coi tương đương với “kandidat nauk” của Nga hay Ph.D của nhiều nước) và TSKH (tiến sỹ khoa học, tương đương với “doktor nauk” hay “Dr.Habil.”, với xu hướng đơn giản hoá chuyển về hệ một bằng TS cho giống hệ thống Mỹ. Hệ thống một bằng tiến sỹ (Ph.D.) ở Anh, Mỹ hoạt động tốt, và hệ thống hai bằng ở Nga, Pháp Đức hoạt động cũng tốt. Ở Việt Nam , chúng ta muốn đơn giản hoá theo hệ thống một bằng Ph.D., theo tôi cũng tốt. Điều quan trọng hơn cả là phải làm sao đảm bảo chất lượng bằng tiến sỹ, ngăn chặn những trường hợp bằng rởm.

Ở phương Tây, bằng TS chỉ là điều kiện cần (nhưng chưa đủ) để xin được một chân trong đại học hay viện nghiên cứu: mỗi suất tuyển việc thường có nhiều người xin, có cạnh tranh lớn. Bằng cấp chả giúp ích gì trong “sự nghiệp” nếu không có trình độ tương xứng. Bởi vậy ít ai có nhu cầu kiếm bằng “rởm”. Ở Việt Nam hiện tại bằng “rởm” vẫn cho phép “thăng quan tiến chức” như thường nên mới có nhiều người kiếm bằng TS dù không có trình độ khoa học gì cả. Bộ Giáo dục Đào tạo của Việt Nam có thừa nhận là hiện có quá nhiều tiến sỹ “giấy”. Điều này tất nhiên là tai hại cho Việt Nam , nhưng trong hoàn cảnh và cơ chế ở nước ta hiện nay, ngăn chặn nó chắc không phải dễ.

5. Các tạp chí toán học của ViệtNam

Việt Nam hiện tại có hai tạp chí nghiên cứu toán học có được phát hành ra nước ngoài, là Acta Mathematica VietnamicaVietnam Journal of Mathematics. Về số lượng, có được hai tạp chí có tính quốc tế là nhiều. Nhưng chất lượng còn chưa cao. Ước tính, tổng số lần trung bình một bài báo đăng ở hai tạp chí này được trích dẫn ở nước ngoài là không quá 1-2 lần. Để so sánh, trung bình một bài báo đăng ở Annals of Mathematics(tạp chí số 1 về ngành toán) được trích tổng cộng hơn 100 lần, và một bài báo đăng ở Manuscripta Math (tạp chí loại trung bình, đứng quãng thứ 90-100 trong các tạp chí toán) được trích tổng cộng quãng 10 lần. Có lẽ phải hàng thập kỷ nữa chất lượng tạp chí của Việt Nam mới có thể lên “hàng trung bình” được bằng Manuscripta.

Làm sao để nâng cao chất lượng tạp chí toán học Việt Nam , và đồng thời nâng cao uy tín của nền toán học Việt Nam ? Tất nhiên, muốn phát triển thì phải có đầu tư, và muốn toán học (hay khoa học nói chung) Việt nam phát triển thì phải đổ tiển của vào.

Song song với việc đầu tư tiền của nhiều hơn, có nhiều việc khác có thể làm để nâng cao uy tín tạp chí toán học Việt Nam . Một trong những việc đó là nâng cao uy tín của ban biên tập bằng cách “quốc tế hoá” nó. Lấy một ví dụ: tạp chí Journal of Operator Theorylà tạp chí của Rumani (Romania), nhưng ban biên tập của tạp chí này chỉ có vài người Rumania, còn chủ yếu là người nước ngoài, trong đó có nhiều “tên tuổi quen thuộc” như Alain Connes, Vaughan Jones, Peter Lax, v.v. Với một ban biên tập có uy tín rất cao, dễ hiểu là họ thu hút được nhiều bài báo chất lượng cao. Trong khi đó , ban biên tập hai tạp chí toán của Việt Nam hiện tại chủ yếu là người Việt, và thậm chí một số người trong đó đã ngừng nghiên cứu toán học từ lâu. Tạp chí của Việt Nam cần tìm mọi cách tăng tỷ lệ các nhà khoa học nước ngoài có uy tín cao trong ban biên tập.

Một điểm yếu nữa của tạp chí toán Việt Nam là vấn đề hình thức. Từ khi Vietnam Journal of Mathematics có thoả thuận được về chuyện phát hành với nhà xuất bản Springer thì đã khá lên nhiều về khoản này. Nhưng hình thức của Acta Mathematica Vietnamica vẫn còn kém. Các số báo của Acta Math. Viet, mà tôi nhìn thấy ở các thư viện trên thế giới (kể cả những số năm 2005) phần lớn bị xộc xệch và đóng bìa không chắc, có vẻ hơi thủ công. Hình thức kém làm giảm giá trị của Acta,càng khó thu hút các nhà toán học nước ngoài.

Có một số nhà toán học “có cỡ” của Việt Nam chủ yếu chỉ đăng bài ở tạp chí trong nước (không kể những bài họ đăng khi đang du học nước ngoài). Theo tôi thì chuyện “gà què ăn quẩn cối xay” này không có lợi. (không phải là không nên đăng ở trong nước-những người trình độ cao thỉnh thoảng “ủng hộ” bài cho tạp chí Việt Nam là điều đáng hoan nghênh - nhưng nếu chủ yếu đăng ở trong nước thì thành phản tác dụng). Đối với một người có trình độ TS về toán, có một công trình mà không thể đăng ở nước ngoài thì không đáng gọi là công trình khoa học. Nếu có thể đăng ở nước ngoài nhưng chỉ đăng ở trong nước là “tự mình dìm mình”, bài báo đăng ở tạp chí của Việt Nam ít được quan tâm đến hơn so với đăng ở các tạp chí khác, nên dù kết quả có tốt thì cũng ít ai biết đến, tạo được ảnh hưởng rất thấp. Mà khi ảnh hưỏng của mình đối với đồng nghiệp thấp, thì khó thu hút họ hợp tác, khó thu hút họ đăng báo ở Việt Nam .

6. Học sinh giỏi toán và hệ thống chuyên toán

Tôi có may mắn được học chuyên toán từ bé. Nhân một lần họp lớp cũ gần đây, tôi được biết các bạn cùng lớp với tôi ở chuyên toán cấp 2 Trưng Nhị nói chung đều thành đạt, tuy mỗi người một nghề khác nhau: trưởng khoa ở đại học, chủ văn phòng luật sư, trung tá quân đội, giám đốc doanh nghiệp, v.v.. Các bạn tuy mỗi người một vẻ, nhưng có chung một điểm là học giỏi toán và ham học toán khi học phổ thông, và thành đạt về sau này. Qua đó tôi muốn rút ra kết luận là học giỏi toán ở phổ thông có ảnh hưởng lớn trong việc thành công trong công việc sau này, bất kể làm nghề gì, và các lớp chuyên toán có tác dụng tích cực trong việc nâng đỡ các học sinh giỏi đó.

Mục đích chính của chương trình giáo dục phổ thông là nhằm giáo dục toàn diện cho mọi học sinh, nhưng không nhằm phát huy các “tiềm năng” đặc biệt. Nhưng để “tiềm năng” trở thành “tài năng” thì tiềm năng đó cần môi trường thích hợp nơi nó được phát triển, rèn luyện thường xuyên. Sẽ không ai biết đến Mozart nếu ông ta không luyện đàn liên tục từ bé. Bởi thế nên cần có các lớp dạy nhạc, các câu lạc bộ thể thao, v.v., và cũng cần có những nơi để cho các học sinh có khiếu về toán học (hay khoa học nói chung) phát huy cái khiếu đó của mình. Hệ thống lớp chuyên chính nhằm đáp ứng một phần nhu cầu chính đáng này.

Sự có mặt của các lớp chuyên (và các trường tư thục) làm cho nhân dân được tăng sự lựa chọn, dễ tìm được trường lớp thích hợp với mình hơn. Tương tự như vậy, bản thân chuyện có các lớp học thêm là điều tốt, chỉ khi nào chuyện đó bị lạm dụng mới trở thành xấu. (Rất tiếc hiện nay việc học thêm lại trở thành tệ nạn ở Việt Nam , cũng là hậu quả của cơ chế lương ít lậu nhiều).

Trong “thời đại của sự hiểu biêt” hiện nay, năng suất lao động gắn liền với trình độ hiểu biết, và những người trình độ cao có thể có năng suất lớn hơn nhiều lần những người có trình độ trung bình. Việt Nam cần nhiều người có trình độ cao. Các học sinh có nhiều triển vọng trở thành những người có trình độ cao chính là các học sinh giỏi. Nếu chỉ đầu tư mức trung bình vào học sinh giỏi thì các học sinh đó sẽ có trình độ cao “vừa phải”, nhưng nếu đầu tư thêm vào đó thì có thể giúp họ đạt trình độ “rất cao”, làm cho năng suất của họ cao hẳn lên, có lợi nhiều thêm cho xã hội. Bởi vậy, chú trọng đầu tư hơn mức trung bình vào các lớp chuyên là một chính sách đúng đắn.

Có nhiều người lo ngại, không phải vô cớ, về chuyện học lệch ở các lớp chuyên. Đây là điều đáng được quan tâm chú ý để làm sao cho các học sinh lớp chuyên vừa phát triển toàn diện vừa phát triển mạnh về thiên hướng của minh, nhưng không vì thế mà phủ nhận giá trị của hệ thống chuyên.

Một vấn đề nữa là chương trình giáo dục về toán làm sao cho thích hợp, hiệu quả. Ở Việt Nam, hệ thống giáo dục được trải qua nhiều cải cách, nhưng có những cải cách thành cải lùi, tốn nhiều tiền của của nhà nước nhưng không giải quyết được vấn đề, có lẽ bởi nhiều khi cách đặt vấn đề sai, và bản thân người sửa đổi chương trình không có trình độ chuyên môn. Một lần tôi được nghe GS Lê Tuấn Hoa (Viện Toán) nói về tình trạng sách giáo khoa ở Việt Nam mà phát phì cười. Ví dụ trong một sách giáo khoa toán mục viết về căn bậc hai có 15 công thức mà học sinh phải học, trong đó có “căn bậc hai của a nhỏ bình phương là trị tuyệt đối của a nhỏ, căn bậc hai của A lớn bình phương là trị tuyệt đối của A lớn” được viết thành 2 công thức khác nhau. Sách mà như vậy thì chả trách giáo viên dạy vẹt, học sinh học vẹt.

Có nhiều người kêu ca là các học sinh chuyên toán chỉ giỏi làm các bài kiểu mẹo mực, và các đề thi học sinh giỏi cũng hay mang tính mẹo mực. Chuyện kêu ca này là có cơ sở, và chuyện “mẹo mực” có lẽ làm giảm bớt giá trị của hệ thống chuyên toán. Thời giờ đổ vào những mẹo mực hoàn toàn có thể dành cho việc học các kiến thức cơ bản cao hơn, vừa tự nhiên hơn vừa có nhiều ứng dụng hơn. Ví dụ như học sinh trung học nếu có khả năng và điều kiện nên học thêm chương trình đại học (dưới sự hướng dẫn của giáo viên đại học), sẽ chóng mở mang tầm hiểu biết hơn so với nếu bỏ quá nhiều thời giờ vào những bài toán “mẹo mực”.

Các giáo viên có lẽ nên “thoáng hơn” trong các kỳ kiểm tra và thi học sinh giỏi, cho phép học sinh sinh viên sử dụng kiến thức “ngoài chương trình” miễn là hiểu và sử dụng nó một cách đúng đắn, như thế sẽ khuyến khích được học sinh sinh viên học kiến thức cao hơn, rộng hơn. Về chuyện này, một NCS toán (đang ở Mỹ) có than phiền với tôi là khi học đại học trong nước làm bài thi hay bị trừ điểm vì tội dùng kiến thức “không có trong chương trình”. Ông Drinfeld, một người Nga được giải thưởng Fields về toán, thời trẻ một lần đi thi học sinh giỏi chỉ làm mỗi một bài trong số mấy bài ra trong đề thi, nhưng làm bài đó một cách tuyệt vời và phát triển lên hẳn thành một lý thuyết nhỏ. Hội đồng giám khảo bèn trao giải đặc biệt cho Đrinfeld. Nếu họ không “thoáng” thì có khi Drinfeld chẳng được giải gì.

Một trong những thành tích dễ thấy của hệ thống chuyên toán Việt Nam là đào tạo ra nhiều học sinh đi thi toán quốc tế đạt giải cao. Đó là một điều đáng mừng, vì nó chứng tỏ được phần nào rằng tiềm năng trí tuệ của dân ta không kém gì thế giới. Tuy nhiên có mấy điểm cần chú ý. Nhiều người Việt Nam hiểu nhầm chuyện thi toán quốc tế tốt thành chuyện Việt Nam có nền toán học mạnh. Những người nước ngoài, cho dù xuất phát điểm của họ có khi không bằng người Việt, nhưng khi lên đến bậc đại học và sau đại học họ có điều kiện kinh tế và môi trường làm việc thuận lợi hơn nhiều người Việt Nam, thì kết quả cuối cùng là họ vẫn dễ trở thành những nhà khoa học xuất sắc hơn nhiều người Việt. Một điểm nữa là năm nào đội tuyển thi toán quốc tế của Việt Nam cũng được tuyển chọn luyện tập rất kỹ lưỡng, về khoản này có khi hơn nhiều các nước khác, nên khi chúng ta đạt giải cao hơn họ chưa chắc đã có nghĩa là tiềm năng của học sinh chúng ta cao hơn học sinh của họ.

7. Người Việt làm toán ở nước ngoài

Theo thống kê sơ bộ thì hiện có gần 100 người Việt làm toán đang định cư ở nước ngoài. So với tổng số các nhà toán học trên thế giới thì con số này chỉ là “muối bỏ biển”, nhưng so với Việt Nam thì đây là con số đáng kể, và sẽ là một động lực quan trọng cho việc phát triển toán học của Việt Nam.

Để so sánh, ở trong nước có quãng 300 người có công trình toán học trong mấy năm gần đây. Tuy nhiên, nếu tính về “tổng sản phẩm” nghiên cứu toán học thì có lẽ nhóm Việt kiều làm được nhiều hơn so với nhóm ở trong nước. Tôi không có ý gì chê bai người trong nước- môi trường làm việc ở nước ngoài thuận lợi hơn nhiều so với ở trong nước và sự cạnh tranh ở nước ngoài cũng lớn hơn, nếu đạt kết quả thấp hơn mới là chuyện lạ.

Trong số những người Việt làm toán ở nước ngoài hiện nay, thì có một phần là Việt kiều lâu năm (rời khỏi Việt Nam từ trước 1954 hay 1975, hoặc sinh ở nước ngoài), ví dụ như GS Lê Dũng Tráng (ICTP, Trieste), GS Dương Hồng Phong (Colombia University), GS Tôn Thất Tưởng (Iowa), hay GS Frédéric Phạm (GS ở Nice đã nghỉ hưu từ hai năm nay, bố Việt mẹ Pháp). Còn một phần không nhỏ là những người đi từ Việt Nam du học ở nước ngoài sau 1975, rồi chọn ở lại nước ngoài, ví dụ như GS Vũ Kim Tuấn (đại học West Georgia), GS Phạm Hữu Tiệp (Florida), GS Lê Tự Quốc Thắng (Georgia Tech), GS Đinh Tiến Cường (Paris 6), hoặc những người đã làm việc ở trong nước một thời gian rồi kiếm được việc ở nước ngoài, như GS Đinh Thế Lục (trước ở Viện Toán Hà Nội, nay làm ở Avignon).

Có những người ở Việt Nam thành kiến cho rằng việc “bỏ đi” làm ở nước ngoài là một sự “phản bội tổ quốc”, là một sự “chảy máu chất xám của Việt Nam”. Những ý nghĩ phiến diện này có lẽ xuất phát từ sự hiểu biết sai lệch về thế giới. Thế giới ngày nay đi theo xu hướng “thế giới đại đồng”. Việc một người Việt đi làm việc ở Mỹ hay Pháp không khác gì mấy việc một người “tỉnh lẻ” ra Hà Nội làm việc. Các anh tài từ khắp các nơi được thu hút về các trung tâm lớn nơi họ có nhiều điều kiện nhất để phát triển là điều dễ hiểu. Bởi thế nên một trường đại học lớn ở phương Tây thường có rất nhiều GS là người gốc nước ngoài, và cũng nhiều sinh viên người nước ngoài, và cũng nhiều sinh viên người nước ngoài. Người Việt Nam, nếu trụ lại được và thành công (có vị trí xã hội cao) ở nước ngoài, thì sẽ trở thành cái cầu nối mở cửa cho Việt Nam với thế giới, giúp cho Việt Nam phát triển hoà nhập với thế giới.

Hiện tại, do điều kiện làm việc khoa học ở Việt Nam còn quá kém so với ở phương Tây, nên nhiều nhà toán học trẻ xuất sắc nhất của Việt Nam chọn làm việc ở nước ngoài. Nếu một người có tài như Ngô Bảo Châu (GS ở Paris) mà làm việc ở Việt Nam, suốt ngày lo chuyện “cơm áo gạo tiền”, và không được thường xuyên trao đổi với những nhà toán học lớn như Laumon (viện sỹ hàn lâm Pháp, thầy của GS Châu) và Lafforgue (người được giải thưởng Fields năm 2002, cũng là học trò của Laumon) thì chắc còn lâu mới làm được công trình dẫn đến giải thưởng Clay. Khi nào ở Việt Nam có được trung tâm khoa học với điều kiện làm việc ngang tầm thế giới, trả lương cao như thế giới, thì sẽ thu hút được những nhà khoa học giỏi nhất, không chỉ người Việt mà cả người ngoại quốc, đến làm việc.

Cụm từ “chảy máu chất xám” nên đổi thành “xuất khẩu chất xám” thì đúng hơn. “Chất xám thô” nếu dùng ở ngoài hiệu quả gấp nhiều lần dùng ở trong nước, thì xuất khẩu có lợi cho cả đôi bên. Một trong những động lực phát triển kinh tế Việt Nam trong những năm vừa qua chính là nguồn vốn do hai triệu Việt kiều đổ vào Việt Nam . Những nhà toán học mà Việt Nam “xuất khẩu” ra nước ngoài không những đã đóng góp nhiều tiền của cho Việt Nam, mà còn đã và đang giúp đỡ Việt Nam nhiều về toán học, dưới nhiều hình thức khác nhau.

Nguồn: Vật lý ngày nay, số 2/2006

Xem Thêm

Nghiên cứu, thử nghiệm và nhân rộng các mô hình kinh tế xanh
Chính phủ yêu cầu thực hiện hiệu quả Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021- 2030, tầm nhìn 2050. Đồng thời nghiên cứu, thử nghiệm và nhân rộng các mô hình kinh tế xanh, đô thị, nông thôn xanh; thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng bền vững...

Tin mới

Thanh Hoá: Tập huấn Bình dân học vụ số cho cán bộ, hội viên
Ngày 22/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa tổ chức Hội nghị tập huấn về Công nghệ số ứng dụng trong sản xuất và đời sống (Bình dân học vụ số) cho gần 200 cán bộ, hội viên của các hội thành viên, trung tâm trực thuộc, đơn vị liên kết trong hệ thống Liên hiệp hội.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Tiền Giang: Họp mặt và vinh danh trí thức KH&CN
Ngày 20/5, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Tiền Giang phối hợp Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức họp mặt trí thức KH&CN và vinh danh 2 trí thức được phong hàm Phó Giáo sư, 8 trí thức được công nhận học vị Tiến sĩ.
ĐẨY MẠNH HỢP TÁC VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI NHÂN DÂN TRONG HỆ THỐNG LIÊN HIỆP HỘI VIỆT NAM
Sáng ngày 13/5/2025 tại tỉnh Sóc Trăng, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) đã phối hợp với Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Sóc Trăng tổ chức Hội thảo “Xúc tiến hợp tác và chia sẻ kinh nghiệm hoạt động đối ngoại nhân dân trong hệ thống Liên hiệp hội Việt Nam”.
VUSTA đóng góp cho Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 2013 và Dự thảo Luật KHCN & ĐMST
Dù chỉ sửa đổi một số điều của Hiến pháp năm 2013, đội ngũ trí thức Liên hiệp Hội Việt Nam nhấn mạnh tính cấp thiết và chiều sâu cải cách, từ mô hình chính quyền hai cấp đến quy định cụ thể cấp hành chính, làm rõ vị trí tổ chức chính trị - xã hội...