Tổ GK thời chống Mỹ
Mỹ phong tỏa, GK ra đời
Ngày 5-8-1964, đế quốc Mỹ bắt đầu dùng không quân ném bom triệt phá miền Bắc Việt Nam. Từ 1967 đến 1968, Mỹ có thêm thủ đoạn mới là dùng máy bay chuyên dụng thả thủy lôi từ tính (TLTT) và bom từ trường (BTT) xuống các cảng biển, đường sông, đường bộ ở nhiều tỉnh, thành phố phía Bắc. Quân dân ta đã bắn trả quyết liệt, bắn rơi nhiều máy bay thả bom, thủy lôi đồng thời rà phá thành công nhiều loại TLTT, BTT của địch.
Ngày 9-5-1972 tổng thống Mỹ R.Ních-xơn lên đài đọc tuyên bố phong tỏa giao thông miền Bắc Việt Nam bắt đầu từ 9 giờ 9 phút, cùng lúc ra lệnh dùng không quân thả TLTT, BTT mật độ dày trên diện rộng. Đặc biệt là cảng Hải Phòng và các vùng lân cận. Bọn chúng cũng rêu rao là đưa vào cuộc chiến nhiều vũ khí cải tiến tinh vi thông minh có khả năng sát thương cao. Trước tình hình đó, ngành Giao thông vận tải (GTVT) cần được bổ sung thêm lực lượng nghiên cứu và xây dựng phương án rà phá bom mìn để đối phó với những thủ đoạn mới của địch. Bộ trưởng GTVT Phan Trọng Tuệ (nguyên Thiếu tướng quân đội) đặt vấn đề phối hợp với Bộ Đại học và trung học chuyên nghiệp do GS Tạ Quang Bửu làm Bộ trưởng. Và Trường đại học Bách khoa Hà Nội (ĐHBK), một trung tâm đào tạo, nghiên cứu về khoa học-công nghệ lớn nhất nước ta ngày ấy được chọn là đầu mối phối hợp nghiên cứu. Bộ trưởng Phan Trọng Tuệ ra Quyết định số 338/BT thành lập Tiểu ban Rà phá bom mìn, thủy lôi trong Ban Bảo đảm giao thông do ông Nguyễn Kha, Vụ trưởng Vụ Kỹ thuật, Bộ GTVT làm trưởng tiểu ban. Tiểu ban này có 6 tổ chuyên môn thuộc các đơn vị ở Bộ GTVT, riêng tổ số 1 có tên là “Nghiên cứu cơ bản và thiết kế phương án” do GS TSKH Vũ Đình Cự thuộc ĐHBK biệt phái sang Bộ GTVT làm tổ trưởng và các tổ viên đều là cán bộ ĐHBK. Tổ này có mật danh là GK1 với ý nghĩa G là Giao thông, K là Bách khoa, 1 là tổ phối hợp đầu tiên, về sau sẽ có GK2, GK3....
Thực tế tổ GK1 thành lập từ cuối tháng 5-1972, ngoài GS Vũ Đình Cự (tổ trưởng) có các thành viên: PGS, TS Nguyễn Bính ngành Tự động hóa; PGS Bùi Minh Tiêu ngành Vô tuyến điện tử; PGS, TS Nguyễn Xuân Chánh ngành Vật lý chất rắn; PGS Nguyễn Nguyên Phong ngành Vật lý hạt nhân; PGS Nguyễn Trọng Quế ngành Thiết bị điện và đo lường. Hai tháng sau, tổ được bổ sung thêm 5 thành viên cũng là những giảng viên có trình độ cao của trường. Tổ GK2 được thành lập trên cơ sở bộ phận chế tạo ca nô không người lái điều khiển từ xa để rà phá bom thủy lôi có từ thời kỳ chống phong tỏa 1967-1968. Năm 1972 tổ ca nô không người lái cũ đã cải tiến cách điều khiển vô tuyến, sử dụng các phương pháp rà phá mới của GK1 để hình thành GK2 làm nhiệm vụ rà phá bom mìn thủy lôi thả trên sông. Hai cán bộ chủ chốt của GK2 là ông Nguyễn Hữu Bảo (Bộ GTVT) và ông Đoàn Nhân Lộ (ĐHBK). Sau năm 1973 thành lập thêm các tổ GK3, GK4 chủ yếu là làm các việc giải tỏa hết các loại bom, mìn, thủy lôi còn sót lại ở vùng cảng, cửa sông.
Tìm và phá “bẫy”
Những thành viên đầu tiên của tổ GK1 giờ đều đã ở tuổi 70-80 cả. PGS, TS Nguyễn Xuân Chánh (sinh năm 1932) nhớ lại: “Việc phối hợp giữa Bộ GTVT và ĐHBK ngày đó được tiến hành rất thuận lợi theo cách làm việc trong thời chiến, chỉ sau một tuần là có đủ điều kiện để tổ bắt tay ngay vào công việc. Hai vị bộ trưởng đều đã nêu yêu cầu là phải tập trung trí tuệ tìm cho ra cái bẫy điều khiển tự động cài đặt trong vũ khí của địch. Rà phá được bom mìn, thủy lôi, nhưng phải giảm thiểu hoặc ngăn chặn không để xảy ra thương vong cho người và phương tiện. Tổ chúng tôi nhận thức rõ yêu cầu mà hai Bộ trưởng đề ra, ai cũng nỗ lực hết mình, đồng thời có sự giúp sức của nhiều đơn vị. Chúng tôi được biết sau ngày địch thả thủy lôi phong tỏa cảng Hải Phòng không lâu, ngày 12-5-1972 xã viên HTX đánh cá Tràng Cát (An Hải, Hải Phòng) lần đầu tiên phát hiện một quả thủy lôi lớn mang ký hiệu MK-52 ở gần đèn Nơm trên luồng chính vào cảng. Về BTT, lần này Mỹ cũng đưa ra loại mới MK36 với đầu gây nổ MK42 mod 3. Khi tổ GK1 xuống Hải Phòng, nhờ lòng dũng cảm của các chiến sĩ rà phá bom mìn ở cảng, trong một thời gian ngắn họ đã mang về cho tổ các hiện vật quan trọng là quả MK-52 còn nguyên vẹn, quả MK-36 với đầu điều khiển MK-42 mod 3. Lúc đó có tin đồn đoán rằng: MK-52 là loại vũ khí tinh vi, có cả cảm biến từ, cảm biến âm và cảm biến theo một loại sóng gì đấy có thể điều khiển từ xa. Sau một thời gian ngắn nỗ lực tìm hiểu, chúng tôi khẳng định thủy lôi MK-52 có cảm biến là thanh sắt từ các bộ phận tương đối cổ điển dễ nhận biết song mạch điều khiển có những cải tiến. Còn thủy lôi nhỏ hay bom từ trường MK-36 có đầu điều khiển MK-42 rất đặc biệt, nhiều linh kiện bán dẫn đúc kín và cảm biến là màng mỏng từ. Cảm biến màng mỏng từ là một thành tựu khoa học công nghệ mới của thế giới lúc đó, được Mỹ ứng dụng ngay vào chiến tranh. Ở đây có một sự “gặp gỡ” thú vị. Đề tài nghiên cứu và bảo vệ thành công luận án tiến sĩ của GS Vũ Đình Cự tại Đại học Lô-mô-nô-xốp (Liên Xô cũ) cũng chính ở lĩnh vực này. Bởi thế cái bẫy màng mỏng từ nhanh chóng được phát hiện và bài toán phức tạp về hệ thống điều khiển tự động cũng dần dần được giải mã. Trong việc tìm hiểu xác định đặc tính kỹ thuật của đầu điều khiển BTT, còn có sự đóng góp quan trọng của một nhà khoa học trong nhóm là PGS Bùi Minh Tiêu. PGS Tiêu về tuổi đời là anh cả của tổ GK. Ông sinh năm 1922, từng là cán bộ Nha nghiên cứu quân giới từ năm 1947, sau hòa bình ông là kỹ sư nghiên cứu về điện tử ở Đại học Thanh Hoa, Trung Quốc, là cán bộ giảng dạy về vô tuyến điện tử ở ĐHBK từ 1958”.
Trong một bài viết về tổ GK ngày ấy của PGS Nguyễn Trọng Quế (sinh năm 1931), cũng có đoạn ghi nhớ đóng góp của người anh cả của nhóm: “Công việc xác định đặc tính kỹ thuật của đầu điều khiển thuộc về anh Tiêu. Bao nhiêu ngày trầm ngâm suy nghĩ ngồi vạch ra các sơ đồ và các tín hiệu điều khiển số, anh đã xác định rõ ràng nguyên lý làm việc của MK-42… Các thông số được đo đạc bằng các phương tiện tốt nhất thời ấy. Chính nhờ các thông số đó, các thiết bị rà phá được thiết kế vững vàng hơn, các máy nhiễu bom từ trường được ra đời… Kiến thức anh Tiêu rất rộng. Anh am hiểu kỹ thuật điện tử tương tự, điện tử số, truyền tin trên sóng vi ba, truyền tin nhiều kênh. Anh luôn được bạn bè kính trọng, sinh viên quý mến, nhiều sinh viên coi anh như người cha, điều này được thể hiện trên những khuôn mặt đẫm nước mắt trong tang lễ anh Tiêu năm 1986”.
Cũng cần phải nói thêm trong thời gian nghiên cứu, trường ĐHBK đã tập trung nhiều thiết bị hiện đại do Liên Xô vừa trang bị để tổ GK sử dụng, bố trí điện nước bảo vệ nhà A cẩn mật để làm nơi nghiên cứu. Mặt khác Bộ GTVT đã tạo rất nhiều điều kiện để tổ đi lại tiếp xúc rút kinh nghiệm với các đơn vị trực tiếp làm nhiệm vụ rà phá. Nhờ vậy trong thời gian hơn 3 tháng, nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản để đưa ra các biện pháp rà phá xem như hoàn thành. Không chỉ phổ biến để các đơn vị của Bộ GTVT hiểu nguyên lý để cải tiến các cách rà phá cũ cho có hiệu quả, tổ GK1 còn tổ chức cho các xưởng ở ĐHBK làm ra các dụng cụ máy móc mới để rà phá hoặc phục vụ việc rà phá. Đó là: các bộ điều khiển tạo xung từ thích hợp cho việc làm nổ bom mìn thủy lôi, các cuộn phóng từ cơ động để lắp trên ô tô, trên ca nô để đi rà phá, các bộ gây nhiễu làm câm bom, mìn thủy lôi để đảm bảo an toàn khi tiếp cận...
Công việc từ phòng thí nghiệm ra chiến trường được triển khai hết sức mau lẹ, hiệu quả cao. Nhờ các loại thiết bị ứng phó mới của ta mà cuộc chống phong tỏa đến năm 1973 đã đạt được những kết quả to lớn. Nhiều TLTT, BTT được phá, tháo gỡ, đặc biệt trong các năm 1972-1973 khi triển khai các ứng dụng nghiên cứu của GK1 đã không xảy ra trường hợp thương vong, thiệt hại nào cho các chiến sĩ cùng phương tiện rà phá. Tất cả các công việc GK làm đều thuộc diện bí mật. Chỉ sau khi ký hiệp định Pa-ri, Mỹ phải rút hết quân khỏi Việt Nam, vào nửa cuối năm 1973, tổ GK1 mới được biết đến công khai khi Nhà nước tặng thưởng nhiều huân chương, bằng khen cho tổ và các thành viên.
Trong Giải thưởng Hồ Chí Minh cho công trình “Phá TLTT và BTT bảo đảm giao thông 1967-1972” do Chủ tịch Lê Đức Anh ký ngày 10-5-1996, có 10 đơn vị được ghi công. GK1 là đơn vị duy nhất làm nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản, đóng góp cho sự thành công của các đơn vị khác trong và ngoài quân đội trực tiếp làm nhiệm vụ rà phá. Tổ GK1 đã xuất sắc hoàn thành nhiệm vụ, còn do biết tập trung trí tuệ và hợp tác thường xuyên với các đơn vị bạn để đạt tới mục tiêu chung. Và những bài học về sự tập hợp lực lượng, phát hiện vấn đề và triển khai cụ thể từ phòng thí nghiệm ra hiện trường của tổ GK vẫn còn mang nhiều ý nghĩa thiết thực, thời sự cho công cuộc nghiên cứu khoa học hôm nay.








