Tỉnh lỵ Quảng Yên dưới góc nhìn của các nhà khoa học
Các vị GS, TS tham gia hội thảo là các nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau đang công tác ở Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội), Trường Đại học Kiến trúc, Viện Khảo cổ học, Viện Tài nguyên và Môi trường biển, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, Hội Di sản Văn hóa Việt Nam, Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á, Trường Đại học Quốc gia Hiroshima (Nhật Bản) ...
Các bài tham gia hội thảo đề cập tới ba nhóm vấn đề: Đô thị Quảng Yên nguồn gốc, chức năng, quá trình hình thành, phát triển; Không gian văn hóa đô thị Quảng Yên; Điều kiện và nguồn lực tự nhiên, kinh tế, xã hội cho phát triển đô thị Yên Hưng.
Với tham luận “Hành dinh trại Yên Hưng và Chiến lược biển của vua Lý Anh Tông”, GS.TS Nguyễn Quang Ngọc Viện trưởng Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển - Phó chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam cho hay: “Việt Nam là đầu cầu nối liền Đông Nam Á lục địa và Đông Nam Á hải đảo, là giao điểm của các nền văn hóa, văn minh lớn của Thế giới. Việt Nam nằm trên đường hằng hải quốc tế từ tây sang đông, từ nam lên bắc nên giữ một vị thế địa - chính trị, địa - kinh tế và địa - văn hóa hết sức đặc biệt.
Kết quả khai quật và nghiên cứu Khảo cổ học ở Việt Nam một thế kỷ qua đã xác định được khá rõ ràng những lớp cư dân cổ từ trong các vùng nội địa liên tục tiến ra khai phá, sinh cơ lập nghiệp và làm chủ các vùng đảo, quần đảo ngoài biển Đông. Họ định cư tại đây khai phá đất đai, dựng nhà, lập làng và để lại các di tích, di vật thuộc thời đại Đá cũ ở Cồn Cỏ, Quảng Bình, thuộc thời đại Đá mới (các văn hóa Hòa Bình, Soi Nhụ, Đa Bút, Hạ Long, Bàu Tró) trên dải đảo, quần đảo chạy dài từ Móng Cái cho đến Bắc Trung bộ và văn hóa sơ kỳ Kim khí (văn hóa Hoa Lộc) thuộc khu vực bờ biển Thanh Hóa, Nghệ An. Sự hiện diện của các nền văn hóa khảo cổ ở đây với số lượng, quy mô các di tích như vậy chứng tỏ số lượng người di cư ra các vùng biển đảo không nhỏ và ngay từ đó họ đã thuộc nhiều nhóm người, nhiều lớp người khác nhau.
Không phải ngẫu nhiên, trận đánh lịch sử kết thúc 1.000 năm Bắc thuộc, mở ra thời kỳ độc lập lâu dài cho dân tộc Việt Nam lại diễn ra ở vùng cửa sông Bạch Đằng vào những ngày cuối năm 938. Trận thắng này mở ra truyền thống Bạch Đằng, truyền thống thủy chiến, nghệ thuật tiêu diệt thật nhanh chóng và triệt để các đoàn quân xâm lược hùng mạnh ở địa đầu sông biển của Tổ quốc chỉ trong vòng một con nước triều.
Cũng từ sau chiến công kỳ diệu này, các nhà nước độc lập Việt Nam từ Ngô, Đinh, tiền Lê cho đến Lý, Trần, Lê, Mạc, Trịnh, Tây Sơn và Nguyễn luôn luôn ý thức một cách đầy đủ tầm quan trọng của biển, hải đảo và hầu như triều đại nào cũng đều có chiến lược đối với các vùng biển đảo. Tiếc rằng sử sách đời xưa ghi chép quá cô đọng nên dù có cố gắng đến mấy, chúng ta cũng không thể nhận ra được một cách chính xác những hoạt động của các chính quyền độc lập đầu tiên trên lĩnh vực này. Mãi đến thời Lý, đặc biệt vào thời vua Lý Anh Tông mới thấy sử cũ chép về các hoạt động của nhà vua và triều đình ở các vùng biển đảo hay có liên quan đến các vùng biển đảo.
Trong bài viết này, chủ yếu dựa vào nguồn tài liệu thư tịch cổ, chúng tôi bước đầu xác định thời kỳ vua Lý Anh Tông (1138 - 1175) là thời điểm mở đầu của các nhà nước Việt Nam xây dựng và thực thi các chiến lược của Vương triều mình đối với vùng biển đảo thiêng liêng và máu thịt của Tổ quốc.
Công việc quan trọng đầu tiên của vua Lý Anh Tông và cũng có thể được coi là của cả Vương triều Lý đối với các vùng biển đảo là đặt ra hành dinh ở trại Yên Hưng như là một cơ quan quản lý của triều đình trung ương đối với cửa ngõ yết hầu sông nước quan trọng nhất của đất nước, cũng như toàn bộ các vùng biển đảo của quốc gia Đại Việt nói chung.
Trại Yên Hưng có quy mô và vị trí như thế nào cũng là vấn đề cần phải bàn. Dưới thời Lý, hệ thống hành chính ở các địa phương có 24 lộ (hiện nay cũng không có tài liệu xác định được đầy đủ cả tên gọi và vị trí của 24 lộ này). Ngoài lộ ra còn có phủ, ở miền núi hay các miền xa xôi còn có các đạo, châu, trại. Bên dưới các phủ, châu, trại là hương, giáp… Thật không thể hình dung trại Yên Hưng ở đây lại tương đương với các lộ, phủ giống như các vùng châu Hoan, châu Ái.
Sử cũ cũng từng nhiều lần nhắc đến tên trại Yên Hưng như việc đất này từng được Trần Thái Tông cắt ban cho An Sinh Vương Trần Liễu (cha đẻ của Trần Hưng Đạo) vào năm 1237; hay một vùng làng quê trù phú, một cứ điểm mạnh trấn giữ vùng quan ải Bạch Đằng mà sau khi không đón được thuyền lương của Trương Văn Hổ, Ô Mã Nhi đã cho đánh vào trại Yên Hưng vừa để cướp lương thảo về nuôi đội quân đang chết đói ở Vạn Kiếp, vừa triệt phá một cơ sở quân sự trọng yếu của nhà Trần.
Sau hành dinh ở trại Yên Hưng dựng năm 1147, liên tục trong các năm 1154, 1155, 1156, Lý Anh Tông cho dựng các hành cung Ứng Phong (ở Nam Định), hành cung Lỵ Nhân (ở Hà Nam), hành cung Ngự Thiên (ở Thái Bình), phủ đệ ở Phú Lương (Thái Nguyên), phủ đệ ở châu Quảng Nguyên (Cao Bằng). Hành dinh là dinh thự, doanh trại ở ngoài Kinh đô trên nguyên tắc xây dựng phục vụ cho việc quân ở nơi quan yếu, nhưng trong thực tế, người đứng đầu thay mặt cho triều đình vẫn phải cai quản những việc dân sự mà triều đình ủy thác.
Tiếc rằng cho đến nay chúng ta chưa có nghiên cứu cơ bản và nhất là chưa từng tổ chức khai quật khảo cổ học quy mô lớn để xác định chính xác vị trí và quy mô của hành dinh Yên Hưng thời Lý. Theo quan sát bước đầu của chúng tôi thì ở vùng cửa sông Bạch Đằng chỉ có hai địa điểm có nhiều khả năng có liên quan đến vị trí hành dinh này:
Thứ nhấtlà khu vực thành Quảng Yên thời Nguyễn. Tòa thành này nằm trên gò núi Tiên Sơn, xã Quỳnh Lâu, ở vào vị trí trực tiếp án ngữ cửa sông Bạch Đằng và sông Chanh. Khi vua Gia Long thành lập Vương triều Nguyễn, năm 1802 lập ra trấn Yên Quảng cai quản toàn bộ miền đông bắc, năm 1804 đã quyết định chọn gò núi này làm lỵ sở của toàn trấn. Lúc đó trên gò đã có đồn An Bang vốn là trị sở của phủ Hải Đông gồm 2 huyện Yên Hưng, Hoành Bồ và 3 châu Tiên Yên, Vạn Ninh, Vân Đồn. Hơn 2 chục năm đầu dưới thời Gia Long và Minh Mệnh, trấn lỵ Yên Quảng rồi Quảng Yên vẫn chỉ nhân lấy núi làm thành mà hầu như chưa có xây dựng mới.
Đến năm Minh Mệnh thứ 7 (1826) mới đắp thêm lũy đất và năm Tự Đức thứ 12 (1859) mới xây gạch chu vi 295 trượng, mở 3 cửa, mà một phần dấu tích còn lại đến ngày nay. Dưới chân gò là Bến Ngự sông Chanh mà các vị hoàng đế - thi nhân lừng danh trong lịch sử như Trần Thánh Tông, Lê Thánh Tông đều đã từng dừng thuyền ngự, làm thơ ca ngợi cảnh sắc và con người của “quận trị An Bang”, “đỉnh núi Phù Vân” hay “vịnh Minh Nguyệt”.
Chúng tôi hy vọng rồi đây trong chương trình quốc gia bảo tồn và tôn tạo vùng chiến trường Bạch Đằng, các chuyên gia khảo cổ học sẽ có cơ hội khai quật ở khu vực bên trong của tòa thành thời Nguyễn và qua đó có thể tìm ra dấu tích của đồn An Bang xưa. Nếu xác định được chính xác vị trí của đồn An Bang thời Lê thì cũng có nhiều khả năng sẽ tìm được dấu vết các hoạt động của tổ tiên ta ở vị trí được coi là quan trọng nhất của vùng cửa sông Bạch Đằng vào thời điểm của chiến thắng Bạch Đằng năm 1288, cũng như vết tích còn lại của các thời kỳ trước, trong đó không loại trừ hành dinh trại Yên Hưng thời Lý.
Thứ hailà khu vực núi Dinh chỉ cách thành Quảng Yên khoảng 2 cây số về phía đông bắc. Đây cũng là một quả núi thấp, đỉnh núi khá rộng, xưa có Thành Tre, tương truyền là dinh phủ vô cùng linh thiêng, hầu như không ai dám đụng tới (nhưng vì quá lâu đời nên cũng không có ai biết đây là dinh hay phủ nào). Thành này nối thông với sông Chanh và sông Bạch Đằng mà dòng sông cổ, bến Xưởng từ đầu núi (nay là xóm Dinh, xã Cộng Hòa) chạy ra Khê Chanh nay vẫn còn nhận được dấu vết.
Tuy chưa biết được vị trí thật chính xác của hành dinh trại Yên Hưng, nhưng hoàn toàn có thể khẳng định nó không thể ở ngoài khu vực xã Quỳnh Lâu, tổng Hà Bắc xưa (nay là thị trấn Quảng Yên và xã Cộng Hòa). Đây chính là nơi đầu tiên vua Lý Anh Tông, vương triều Lý, các nhà nước phong kiến Việt Nam đã triển khai, thực thi một chiến lược xây dựng và bảo vệ các vùng biển đảo. Truyền thống Bạch Đằng - một truyền thống lớn của dân tộc Việt Nam đã được hình thành và thăng hoa từ vùng cửa sông Bạch Đằng, từ khu vực hành dinh trại Yên Hưng nổi tiếng này. Đây cũng chính là chiều sâu lịch sử - văn hóa của đô thị Quảng Yên, đô thị trấn giữ biển đảo, đô thị che chắn cho Kinh đô Thăng Long, hưng vong cùng non sông đất nước nghìn năm qua và mãi mãi về sau.
Hòa vào xu thế phát triển của đất nước trong thời đại CNH, HĐH, biến đổi toàn cầu, Quảng Yên - Yên Hưng đang triệt để huy động mọi nguồn lực, phát triển đô thị bền vững, thực hiện sứ mệnh cao cả mà cách đây 864 năm vua Anh Tông vương triều Lý trong chiến lược biển đảo đầu tiên của quốc gia Đại Việt đã tìm chọn và ủy thác tất cả vào hành dinh trại Yên Hưng”.








