Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ ba, 25/12/2007 15:42 (GMT+7)

Tìm hiểu về điều kiện tự nhiên và tài nguyên quần đảo Hòang Sa

Các atôn ở quần đảo Hoàng Sa Vùng biển và các đảo Hoàng Sa với diện tích khoảng 32.000 km 2bao gồm 7 atôn (rạn san hô vòng) lớn phát triển trên nền móng có độ sâu nhỏ hơn 120 m, trong các atôn lớn có các atôn nhỏ (ảnh 2). Có 36 đảo kích thước lớn và nhỏ nổi trên mặt nước triều cao nhất và nhiều bãi ngầm trong đó có một số được nổi lên một phần khi mực nước chiều thấp nhất, các đảo này có dạng vành khuyên và nhiều dạng khác, hướng kéo dài cũng không giống nhau, có nền là các đá vôi và rạn san hô. Các đảo nổi theo thứ tự từ Bắc xuống Nam và từ tây sang đông có các tên gọi Việt Nam (một số tên đảo khác với bản đồ hàng hải quốc tế) như sau: 1 - đảo Bắc (chỉ có cát); 2 - đảo Cây; 3 - đảo Trung A; 4 - đảo Trung B; 5 - đảo Trung C; 6 - đảo Cát A; 7 - đảo Cát B; 8 - đảo Cát C; 9 - đảo Vĩnh An; 10 - đảo Phú Lâm trên các atôn Vĩnh An; đá Ba Ba có 6 đảo nhỏ gồm: 11 - đảo đá Ba Ba; 5 - đảo cát kích thước nhỏ là 12 - d, 13 - e, 14 - f, 15 - g, 16 - h; phía tây nam đảo đá Ba Ba có hai đảo cát: 17 - i, 18 – k, 19 - đảo đá A; 20 - đảo Hữu Nhật; 21 - đảo Hoàng Sa, 22 - đảo Duy Mộng; 23 - đảo cát 1; 24 - đảo Nệm Róm (trên đông nam atôn Hải Sâm); 25 - đảo Quang Anh (đảo Tiền); 26 - đảo Dun - can thuộc atôn Lưỡi Liềm (ảnh 3). Về phía đông có các đảo như 27 - Linh Côn; 28 - đảo tháp trên atôn Linh Côn; 29 - đảo cát Rùa Trắng trên atôn Bạch Quy; 30 - đảo Tri Tôn và 6 đảo nhỏ khác.

Các atôn ở quần đảo Hoàng Sa

Atôn Lưỡi Liềm có 6 rạn san hô và 2 atôn nhỏ

Atôn Lưỡi Liềm có 6 rạn san hô và 2 atôn nhỏ

Theo ảnh vệ tinh và khảo sát đo đạc các atôn lớn thường có nhiều rạn với nhiều hình dáng: lưỡi liềm, bầu dục... nằm rải rác trên vòng cung (ảnh 3). Các đảo nổi cao 2 - 16 m trên mực nước biển có dạng bầu dục, dạng mắt, bán hình thang... kích thước thường nhỏ hơn 0,4 - 0,5 km 2, lớn nhất là đảo Vĩnh An trên đó xây dựng sân bay với đường băng dài 2,4 km (ảnh 4) và đảo Linh Côn (chiều dài 2,4; rộng 0,8 km).

Các đảo đều phủ bởi lớp cát san hô có chiều dày từ 0,6 - 6 m, trên lớp cát có nơi thảm thực vật phát triển. Đảo đá tiêu biểu là đảo Ba Ba, Vĩnh An, đảo số 19... phân bố chủ yếu ở phần đông bắc quần đảo và trên các đảo này thực vật bao phủ khá đều và dày.

Các công trình xây dựng dày đặc trên đảo Vĩnh An với sân bay lớn

Các công trình xây dựng dày đặc trên đảo Vĩnh An với sân bay lớn

Đảo cát san hô kích thước lớn hầu như không có thực vật nằm ở phần phía tây nem quần đảo như đảo Tri Tôn; Rùa Trắng còn ở góc đông bắc nhiều đảo cát nhỏ.

Đài khí tượng thành lập ở đảo Hoàng Sa từ năm 1938 cho những thông tin cơ bản về khí tượng hải dương của vùng: (Xem bảng Các đặc trưng khí hậu tại Hoàng Sa).

Vùng biển thường xuyên có sóng lừng mạnh, tuân theo hoạt động gió mùa, ảnh hưởng nhiều cơn bão xuất phát từ Philippin, khí hậu á nhiệt đới. Chế độ triều và bán nhật triều và biên độ triều cực đại vào kỳ triều cường là 2,4 m.

Hiện nay trên đa số đảo nổi có người ở, đông nhất là ở đảo Vĩnh An, Đun Can, Quang Anh, Hữu Nhật, Tri Tôn còn có các đảo khác ít người hơn như đảo Nệm Róm.

Về nguồn gốc atôn và ám tiêu san hô ở quần đảo Hoàng Sa có nhiều quan điểm khác nhau: Theo W. M Davit những ám tiêu san hô ở đây được thiết lập trên vòng quanh các đảo và núi lửa đang chìm dần xuống do quá trình xụt lún theo như lý thuyết của Đác - Uyn, còn theo Akemp giải thích theo thuyết của Daly thì sự phát triển của các atôn xảy ra trên các nền mài mòn bị ngập nước mà trong đó những nền ổn định nhất nằm ở độ sâu 40 - 60 m. San hô ở quần đảo Hoàng Sa phát triển trên bán bình nguyên (peneplen) cổ ban đầu là mặt đất bị mài mòn rồi ngập dần do biển tiến sau băng hà ở độ sau 40 - 100 m (Saurin, 1955).

Các đặc trưng khí hậu tại Hoàng Sa

Các đặc trưng khí hậu tại Hoàng Sa

Từ kết quả nghiên cứu của mình chúng tôi cho rằng các atôn và rạn san hô ở quần đảo Hòang Sa phát triển trên nền móng đá Proterozoi trên nền trầm tích Miocen, Pliocen và Pleistocen bị bào mòn, trên các đảo và rìa đảo núi lửa (đảo Tháp, đảo Tri Tôn và bãi đá Bắc) vào các giai đoạn dâng cao của mực nước biển (cao hơn mực nước biển hiện nay +4 đến +5 m) khi băng tan vào Holocen giữa, còn các bãi, cồn cát trên nhiều đảo nổi tạo khoảng thời gian 6.000 năm lại đây do biển thóai. Sự thành tạo và phát triển lớp các rạn san hô và đá ngầm do chúng tạo nên xảy ra vào kỳ nước biển dâng, khí hậu ấm áp thuận lợi. Phần trên của lớp này bị phá hủy do sóng, không khí, nước mưa và sau đó vận động di chuyển, tích tụ vào kỳ nước biển hạ trên tòan cầu, tạo nên lớp cát vụn san hô ven bãi biển các đảo san hô đá nổi, sau đó nhờ sóng, gió, bão đưa lên bờ tạo thành các cồn cát, ở vùng còn ngập nước có độ sâu thuận lợi các rạn phát triển ra quanh đảo. Trong đệ tứ có 7 cặp trầm tích (đá san hô - cát, rạn san hô) được tạo thành nhờ hoạt động của 7 chu kỳ băng hà tòan cầu. Dòng bồi tích ven bờ có hướng thay đổi theo gió mùa, bão, dòng chảy và tích tụ ở góc kín gió, dòng chảy. Tuy nhiên quá trình động lực này xảy ra phức tạp.

Móng của quần đảo bao gồm đá Proterozoi tuổi 650 - 1100 triệu năm (theo tài iệu khoan ở đảo Phú Lâm), các đá Paleozoi, Mesozoi (dự báo theo tài liệu địa lý và so với các vùng lân cận) và trầm tích Kainozoi: Eocen, Oligocen, Miocen, Pliocen (có nơi lộ trên đáy biển) và Đệ Tứ (lớp phủ mỏng, chiều dày < 150 m). Một khối phun trào lộ ra trên đáy biển tạo thành đảo Tháp (phía đông atôn Linh Côn). Dự báo có một số khối granit phân bố trong vùng. Các đứt gãy chính có hướng đông bắc - tây nam; tây bắc - đông nam và bắc nam. Đây là một địa khối tiền Cambri bao bọc bửoi các thành tạo Paleozoi và Mesozoi bị tách khỏi lục địa Kon Tum cách đây khỏang 32 triệu năm và giữa các vùng sụt do các đứt gãy tạo nên được lấy trầm tích Kainizoi.

Đến nay, tài liệu về khoáng sản ở quần đảo Hoàng Sa được biết là phốt phát (Sarin, 1955). Trước đây nhiều nhà địa chất thường gọi loại quặng này là phôsphat “guano” - phân chim như ở các đảo của Peru, song thực ra loại quặng còn nguyên dạng phân chim là rất ít mà đa phần là sản phẩm biến đổi do các quá trình phong hóa, thấm đọng và biến đổi thứ sinh: biểu sinh (gipegenes) và thành đá (điagenes). Do đó nên gọi chung là quặng phosphat như đề nghị của Saurin (1955) là hợp lý.

Quặng có màu nâu khi bị phong hóa có màu trắng, rắn chắc, có thể bóp vụn nhưng không tan thành bột, cấu tạo dạng xăm kết với các mảnh vụn trắng, kích thước nhỏ, thành phần canxit của san hô, vỏ sò, trùng lỗ, vỏ trai, vỏ sinh vật có vôi khác được gắn kết bởi xi măng colophanit. Tỷ trọng thay đổi 1,7 - 2,0 tới nâu vàng lẫn lộn với vi tinh thể staphelit dạng chưa hoàn chỉnh gắn bó với nhau, giai đoạn đầu của loại phosphat kiểu quecxit, hàm lượng P205 trong quặng thay đổi từ 14,0% - 32,8%.

Ngoài loại quặng trên có những vỉa chứa kết hạch phospphat bị phủ bởi cát màu nâu chứa ít phosphorit như ở đảo Hữu Nhật, Hoàng Sa, đảo Quang Anh. Một số nơi cát bề mặt trên đảo và các bãi biển cũng chứa P205 thay đổi từ ít đến 16,88% (đảo Phú Lâm), 32, 6% (đảo Hữu Nhật). Đây là quặng do phân chum, xác các sinh vật kể cả xương san hô bị biến đổi như đã nêu trên, thấm đọng và thành đá xảy ra trước, trong và sau khi thành tạo các lớp cát san hô.

Tài nguyên địa chất của phosphat ở quần đảo Hoàng Sa có thể được các nhà địa chất đánh giá khác nhau, thay đổi từ 1 đến 12 triệu tấn. Chỉ tính riêng cho các đảo Quang Anh, Hữu Nhật, Hoàng Sa, Duy Mộng, Đun Can, Phú Lâm, Linh Côn và đảo Đá (còn dấu vết) với hàm lượng P205 = 20% có thể khai thác 4,75 triệu tấn quặng phosphat (Saurin, 1955). Quặng phosphat này có gần nửa hàm lượng P205 tan trong axit xitric2% (cây cối có thể đồng hóa trực tiếp) và chứa khoảng 0,8% Nitơ nên làm phân bón rất tốt. Vào những năm 30 của thế kỷ XX người Nhật đã khai thác ở đảo Hữu Nhật và cuối năm 1939 hãng phosphat Bắc Kỳ ở Hải Phòng và Tổng thanh tra canh nông Đông Dương đã phân chi ra các lô nhỏ để kinh doanh song do chiến tranh thế giới thứ II nên công việc bị đình trệ và từ đó đến nay không có thông tin về tìm kiếm, thăm dò và khai thác sử dụng loại khoáng chất này ở đây.

Về tài nguyên dầun khí: Các bể Kainozoi quanh quần đảo có chiều dày trầm tích trên 2 km và trong đó các phân vị địa tầng của đá sinh, đá chứa và đá chắn thuận lợi cho việc tàng trữ dầu khí cũng như hydrat. Cho đến nay chưa có lỗ khoan tìm kiếm dầu khí vùng nghiên cứu. Về đá sinh có thể tồn tại hại tập trầm tích có tuổi Oligocen và Miocen sớm đạt chuẩn đá mẹ về tiềm năng chứa hữu cơ và độ trưởng thành. Trầm tích Oligocen có khả năng tinh dầu tốt còn Miocen - sinh khí. Bẫy là các tầng cát kết Oligocen - Miocen sớm giữa và đá cacbonnat. Tầng chắn khu vực là tập sét biển sâu Miocen (play 2,3), Play cacbonnat. Các kiểu bẫy chính: cấu tạo vòm và bẫy khép kín bên cánh sụt của đứt gãy thuận. Bể Hoàng Sa được đánh giá có triển vọng về dầu khí, chủ yếu là khí. Tài nguyên dự báo khoảng 340 tỷ m 3(Nguyễn Hiệp, nnk, 2007) và có thể tìm kiếm hydrat (khí metan ở dạng rắn).

Trong số các nguồn tài nguyên khác, nguồn lợi về hải sản (cá, tôm, mực...), giao thông biển và du lịch là quan trọng nhất vì tại đây ngày nay các rạn san hô khá phát triển... song chưa có tài liệu cụ thể.

Quần đảo Hoàng Sa đang bị lực lượng nước ngoài xâm chiếm từ nưm 1974 đến nay và xây dựng trên đó nhiều công trình kiên cố. Việt Nam nhất định sẽ thu hồi phần lãnh thổ và lãnh hải của mình và khi đó các nhà khoa học của đất nước có thể điều tra, khảo sát điều kiện tự nhiên, tài nguyên và môi trường vùng biển này nhằm khai thác và phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường biển và bảo vệ lãnh hải cũng như lãnh thổ Việt Nam.

Tài liệu tham khảo:

Nguyễn Biểu, Cb, 2007, Địa chất quần đảo Hoàng Sa và kề cận. Lưu trữ Viện Địa chất và Địa Vật lý biển. Hà Nội.

Nguyễn Hiệp, Cb, 2007. Địa chất và dầu khí Việt Nam . NXB KHKT Hà Nội.

Saurin E. 1955. Notes sur leslles Paracels. Archives Geologiques du Vietnam.

Xem Thêm

Nghiên cứu, thử nghiệm và nhân rộng các mô hình kinh tế xanh
Chính phủ yêu cầu thực hiện hiệu quả Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021- 2030, tầm nhìn 2050. Đồng thời nghiên cứu, thử nghiệm và nhân rộng các mô hình kinh tế xanh, đô thị, nông thôn xanh; thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng bền vững...

Tin mới

Nhiều ý kiến đóng góp cho Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 2013 và Dự thảo Luật KHCN & ĐMST
Dù chỉ sửa đổi một số điều của Hiến pháp năm 2013, đội ngũ trí thức Liên hiệp Hội Việt Nam nhấn mạnh tính cấp thiết và chiều sâu cải cách, từ mô hình chính quyền hai cấp đến quy định cụ thể cấp hành chính, làm rõ vị trí tổ chức chính trị - xã hội...
Liên hiệp Hội Việt Nam là điểm tựa tin cậy của đội ngũ trí thức Khoa học và công nghệ
Trong chặng đường 42 năm xây dựng và phát triển, Liên hiệp Hội Việt Nam đã khẳng định được vị trí, vai trò là hạt nhân tập hợp đoàn kết và phát huy sức sáng tạo của đội ngũ trí thức khoa học công nghệ Việt Nam trong nước và ngoài nước, góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ quốc gia..
Báo Nhân dân chúc mừng Vusta nhân Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Chiều ngày 15/5, Đoàn cán bộ Báo Nhân dân do Trưởng Ban Khoa học - Môi trường Đinh Song Linh dẫn đầu đã đến thăm và chúc mừng Liên hiệp Hội Việt Nam nhân Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam 18/5. Phó Chủ tịch Phạm Ngọc Linh cùng đại diện lãnh đạo, chuyên viên Ban Phổ biến kiến thức Liên hiệp Hội Việt Nam đã thân mật tiếp đoàn.