Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ sáu, 13/05/2011 18:44 (GMT+7)

Tìm hiểu môn Địa lý học - Lịch sử ở nước ta

Như thế khoa “Địa lý học - Lịch sử” ở nước ta cũng đã có một lịch sử trải qua mấy thế kỷ. Bài viết này bước đầu tìm hiểu một cách đại quát quá trình phát sinh và phát triển của môn Địa lý học - Lịch sử.

Sự phát sinh

Tài liệu xưa nhất có phần viết về địa lý - lịch sử nước ta là sách An Nam chí lượccủa Lê Tắc. Sách gồm 20 quyển, hoàn thành vào khoảng năm 1333. Quyển nhất gồm 10 mục, mục 1 có tên là “Địa lý đồ” (đã khuyết), không biết nội dung và hình thức của nó ra sao. Nhưng mục 3 có tựa là “Quận Ấp”. Ở mục này Lê Tắc kể ra các lộ, phủ, châu, huyện các đời. Chính nhờ mục này mà sách An Nam chí lượccó đặc điểm của một sách Địa lý học - Lịch sử. Vậy phải chăng Lê Tắc là người khai sinh ra môn Địa lý học - Lịch sử ở nước ta. Nhưng sách An Nam chí lượclưu lạc ở Trung Hoa nhiều thế kỷ và mãi cuối đời Thanh, người ta mới phát hiện ra nó nên An Nam chí lượckhông có ảnh hưởng gì nhiều tới quá trình phát sinh, phát triển của môn Địa lý học - Lịch sử ở nước ta.

Cuốn sách Địa lý học - Lịch sử đầu tiên mở đường cho môn Đại lý học - Lịch sử ở nước ta chính là cuốn Dư địa chícủa Nguyễn Trãi.

Ở những mục đầu, Nguyễn Trãi dành để nói khái quát về lịch sử nước ta đã trải qua các triều đại này, rồi quốc hiệu, nơi đóng đô, tên các quận, huyện, lộ, phủ, huyện, xã, rồi núi sông ra sao? Đất đai các vùng tốt xấu như thế nào? Ở đó có những sản phẩm vật quý gì? Ngoài phần viết của Nguyễn Trãi, sách còn có những phần được ghi là Lợi tập chú(chú thích mở rộng) của Nguyễn Thiên Túng; các Lời cẩn án(kể rõ phủ, huyện, xã của vùng đó) của Nguyễn Thiên Tích và Lời thông luậncủa Lý Tử Tấn (ghi là Lời Lý thị). Các tác giả này đều là các tiến sĩ sống cùng thời với Nguyễn Trãi hay muộn hơn chút ít. Những Lời tập chú, Lời cẩn án, Lời thông luậncủa họ đã bổ sung và mở rộng Dư địa chí ra rất nhiều.

Quá trình phát triển

1. Các thế kỷ XVI, XVII, XVIII không có cái may mắn được chứng kiến sự ra đời của các tác phẩm Địa lý - Lịch sử. Nhưng lại có những tác phẩm địa lý, địa chí có giá trị rất nhiều về mặt lịch sử. Có thể kể ra một vài tác phẩm tiêu biểu.

- Vào cuối thế kỷ XV (năm Hồng Đức thứ 14, 1483), vua Lê Thánh Tông sai Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận làm sách ghi chép đủ các chế độ luật lệ, điều lệ văn thơ… thành sách Thiên Nam dư hạ tậpgồm 100 quyển. Sách đã bị thất lạc phần lớn, hiện ở thư viện Khoa học Xã hội (Hà Nội) chỉ còn chừng mười quyển. Trong số các quyển còn lại, có quyển ghi chép về địa lý hành chính dưới thời Tự Đức. Đây là một ghi chép có hệ thống, cụ thể, đáng tin cậy. Tập ghi chép này là tài liệu gốc cho Địa lý học - Lịch sử của nước ta về sau này.

- Một bộ sách địa chí ra đời vào khoảng 1555, do Dương Văn An nhuận sắc có tên là Ô Châu cận lục. Sách gồm 6 quyển.

Trong đó quyển 1 có tên là Môn núi sông, quyển 3 có tên là Môn bản đồvà quyển 4 có tên là Môn thành thịlà những quyển có liên quan nhiều đến môn/ khoa Địa lý học - lịch sử của nước ta về sau này.

- Một bộ sách địa chí khác ra đời vào năm 1776 của Lê Quý Đôn, là sách Phủ biên tạp lục. Sách gồm 6 quyển. Trong đó, quyển 1 có tựa là Sự tích khai thiết, khôi phục hai xứ Thuận Hóa; Quảng Nam. Danh số phủ, huyện, tổng, xã, thôn hai xứ Thuận Hóa, Quảng Namvà quyển 2 có tựa là Hình thế, núi sông, thành lũy, trị số, đường sá, bến đò, nhà trạm.Với quyển 1 và quyển 2, sách Phủ biên tạp lụcđã cung cấp nhiều tư liệu có giá trị, đáng tin cậy không chỉ cho việc tìm hiểu nghiên cứu về hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam mà còn rất có ích cho môn/ khoa Địa lý học - Lịch sử nói chung.

- Một năm sau sự ra đời của sách Phủ biên tạp lục, vào năm 1777, sách Kiến Văn Tiểu Lụccủa Lê Quý Đôn ra đời. Sách gồm 12 thiên. Trong đó thiên thứ 5: Phong vực,Lê Quý Đôn ghi chép về địa lý, kinh tế các trấn Sơn Tây, Hưng Hóa và Tuyên Quang (đặc biệt về đường lối lại ở trong từng xứ).

Như vậy Kiến Văn Tiểu Lụcđã cung cấp một nguồn tư liệu quan trọng cho Địa lý học - Lịch sử nước ta…

2. Sang đầu thế kỷ XIX, đất nước được thống nhất, nội chiến chấm dứt, cương vực và lãnh thổ nước ta rộng lớn hơn bao giờ hết. Vấn đề biên cương và vấn đề quan hệ với các nước láng giềng phức tạp hơn các thời kỳ trước đó. Trong bối cảnh đó, môn địa lý nói chung và địa lý hành chính nói riêng phát triển mạnh mẽ như là sự đòi hỏi của công cuộc trị nước.

Một loạt các sách địa lý, địa lý - lịch sử có quy mô lớn ra đời.

Riêng về sách địa lý, đã có các bộ:

- Hoàng Việt nhất thống chí dư địa chí(của Lê Quang Định). Sách gồm 10 quyển, được hoàn thành vào năm 1806. Sách gồm 2 phần:

Sách Hoàng Việt nhất thống dư địa chílà sách địa lý, chủ yếu là đường sá. Với quy mô lớn, Hoàng Việt nhất thống dư địa chícung cấp cho Địa lý học - Lịch sử một tư liệu lớn.

- Gia Định thành thông chí(của Trịnh Hoài Đức). Sách được hoàn thành hồi đầu thế kỷ XIX. Gồm 6 quyển chép về địa lý tự nhiên, địa lý hành chính, địa lý kinh tế.. của 5 trấn thuộc Gia Định thành. Đặc biệt quyển 3 của Gia Định thành thông chínói về cương vực và quyển 6 nói về thành trì.

Gia Định thành thông chícủa Trịnh Hoài Đức là một bộ sách đầy đủ nhất về đất Gia Định xưa. Riêng về địa lý hành chính thì có đầy đủ danh sách các phủ huyện, tổng, thông, phường, ấp của cả 5 trấn và là nguồn tư liệu lớn rất có ích cho môn/ khoa Địa lý học - Lịch sử.

- Các trấn, tổng xã danh bị lãm(không có tên tác giả). Sách được biên soạn trong khoảng thời gian từ 1820 đến 1829 (dưới triều Gia Long).

Sách Các trấn, tổng xã danh bị lãm không phải là sách Địa lý học - Lịch sử, mà một bộ sách ghi chép các địa danh làng xã của 15 trấn, xứ và đạo ở nước ta, nó chứa đựng những tư liệu quý giá cho việc nghiên cứu Địa lý học - Lịch sử Việt Nam.

- Bắc thành Dư địa chí, sách vốn do Lê Chất, tổng trấn Bắc Thành và nhiều người cùng tham gia biên soạn dưới thời Minh Mạng. Về sau này năm 1845, Nguyễn Văn Lý hiệu đính và bổ sung.

Sách gồm 12 quyển, mỗi quyển là 1 tỉnh.

Nội dung sách có danh sách các phủ, huyện, tổng xã các trấn (11 trấn của Bắc Thành và Thăng Long).

Bắc thành Dư địa chínhư thế là có chứa đựng những tư liệu có ích cho Địa lý học - Lịch sử.

- Khâm định Việt Sử thông giám cương mục, do quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn từ giữa thế kỷ XIX đến cuối thế kỷ XIX thì hoàn thành. Sách gồm 53 quyển, và là bộ thông sử, đầy đủ nhất của nước ta cho đến lúc đó. Sách đã ghi chép khá đầy đủ những thay đổi về việc phân chia các đơn vị hành chính, thay đổi địa danh. Ở các thời kỳ trong mục lời chú, trong nhiều trường hợp, các tác giả truy lại nguồn gốc của các địa danh, trải qua các đời. Do vậy, Địa lý học - Lịch sử có thể tìm thấy ở Cương mụcnhiều tài liệu quý giá cho mình.

Cũng với sự phát triển mạnh mẽ của môn địa lý, môn/ khoa Địa lý học - Lịch sử cũng phát triển một cách dồn dập.

Sớm nhất và nổi bật nhất là chí Dư địa chítrong Lịch triều hiến chương loại chícủa Phan Huy Chú - ra đời vào năm 1819. Lịch triều hiến chương loại chígồm 10 chí, đầu tiên là Dư địa chí.

Ở phần nói về sự khác nhau về bờ cõi qua các đời, Phan Huy Chú đã ghi lại và trình bày thật rõ ràng và đầy đủ quá trình “biến thiên diễn cách” của tên nước, kinh đô, cương vực, các đơn vị hành chính tư đạo, lộ, phủ tới huyện qua các đời suốt từ thời Hùng Vương cho đến thế kỷ XVIII.

Dư địa chítrong sách Lịch triều hiến chương loại chícủa Phan Huy Chú đúng là sách địa lý - lịch sử đầy đủ nhất, quan trọng nhất của nước ta cho đến lúc đó (đầu thế kỷ XIX). Dư địa chícũng là biểu hiện điển hình nhất của sự phát triển, sự tiến bộ của môn Địa lý học - Lịch sử ở nước ta hồi đầu thế kỷ XIX.

Tiếp theo sau Dư địa chítrong Lịch triều hiến chương loại chícủa Phan Huy Chú là sách Đại Việt địa dư toàn biên(cũng gọi là Phương Đinh dư địa chí) của Nguyễn Văn Siêu và Bùi Quỹ.

Đại Việt địa dư toàn biênđược viết xong năm 1882 nhưng mãi đến năm 1900 mới được khắc in.

Đọc Phương Đình dư địa chí, sẽ thấy rõ ràng là các tác giả Nguyễn Văn Siêu, Bùi Quỹ đã viết sách này bằng phương pháp Địa lý học - Lịch sử. Và như vậy Phương Đình dư địa chíđã là một đóng góp lớn cho sự phát triển môn/ khoa Địa lý học - Lịch sử ở nước ta.

Cũng ở cuối thế kỷ XIX, một bộ sách địa lý - lịch sử có quy mô lớn hơn rất nhiều so với bộ Đại Việt dư toàn biênđã được hoàn thành vào năm 1882 đời Tự Đức, có đủ các tỉnh thuộc Bắc, Trung, Nam kỳ từ Lạng Sơn đến Hà Tiên gồm tất cả 31 quyển (29 tỉnh, 1 phủ Thừa Thiên và Kinh sư) (mỗi tỉnh 1 quyển).

Ở mỗi tỉnh, đều có mục: “diên cách”, ở mục này, Đại Nam nhất thống chíchỉ rõ những thay đổi và tên gọi, về phạm vi thông thuộc của từng tỉnh, từng huyện qua các thời kỳ. Chính nhờ mục này, tính chất địa lý - lịch sử của tác phẩm thể hiện ra rõ nhất.

Đại Nam nhất thống chílà bộ sách địa lý - lịch sử lớn nhất, tiêu biểu nhất của nước ta dưới thời phong kiến.

Bộ sách Sử học bị khảocủa Đặng Xuân Bảng được hoàn thành vào khoảng năm 1910 (đầu XX) nhưng nó vẫn thuộc phong cách của thế kỷ XIX. Trong bộ sách này, quyển 2 và quyển 3 dành cho Đại lý khảo(thượng) và Địa lý khảo(hạ).

Đề tài khảo cứu của 2 quyển địa lý này là: Núi sông - Đầm hồ - Nước thủy triều - Đường bộ đường thủy xưa nay - Các nơi đô hội xưa nay - Đô thành nước ta - Duyên cách tên đất xưa nay - Cột đồng - Đê điều.

Với các đề tài trên, đặc biệt là các mục: Duyên cách tên đất xưa nay, đường bộ đường thủy xưa nay và các nơi đô hội xưa nay, thực sự là Địa lý học - Lịch sử.

Sách Sử học bị khảocủa Đặng Xuân Bảng đích thực là một bộ sách địa lý - lịch sử có nội dung phong phú, trong đó có nhiều nội dung mà các sách trước đó chưa đề cập tới, đính chính được nhiều sai sót của nhiều sách khác.

3. Đầu thế kỷ XX, vào năm 1909, xuất hiện một tác phẩm rất đặc biệt, cuốn Việt Nam quốc sử khảocủa Phan Bội Châu.

Sách gồm 10 chương, trước chương 3 có tên là Địa lý - sản vật nước ta.Ở chương này, Phan Bội Châu đã chỉ rõ cương vực nước ta qua các đời cùng với sự thay đổi tên gọi của các đơn vị hành chính nước ta. Điều thú vị là người đọc có thể tìm thấy ở đây những biến thiên diên cách về tên gọi các quận huyện một cách rõ ràng, có hệ thống khá đầy đủ.

Cũng ở đầu thế kỷ XX (1908), Cao Xuân Dục viết Đại Nam dư địa chí ước biên. Nhưng sách này chỉ là sách tóm lược bộ Đại Nam nhất thống chí(do Cao Xuân Dục làm tổng tài) mà thôi.

4. Giữa thế kỷ XX (vào năm 1964, Đào Duy Anh đã cho xuất bản bộ sách Địa lý - Lịch sử Việt Namcó tựa là Đất nước Việt Nam qua các đời. Đây là một tác phẩm Địa lý - Lịch sử công phu, kế thừa được các thành tựu khảo cứu của các sử gia dưới thời phong kiến, kết hợp với các thành tựu nghiên cứu của chính mình, hình thành nên diện mạo địa lý lịch sử Việt Nam từ đầu đến giữa thế kỷ XIX một cách rõ ràng. Do đấy có thể khẳng định rằng Đào Duy anh đã có đóng góp to lớn cho môn Địa lý học - Lịch sử Việt Nam.

Tuy nhiên sách Đất nước Việt Nam qua các đờicủa Đào Duy Anh mới chỉ đi vào mặt chủ yếu của Địa lý học - Lịch sử tức là mặt địa lý hành chính, chứ chưa bao quát được phần lớn đối tượng của Địa lý học - Lịch sử Việt Nam.

Cuối thế kỷ XX, Nguyễn Đình Đầu cho xuất bản cuốn Việt Nam - Quốc hiệu và cương vực qua các thời đại. Đây là một cuốn sách Địa lý - Lịch sử Việt Nam được trình bày một cách vắn tắt, nhưng cơ bản, giúp người đọc có được cái nhìn đại quát hơn, rõ ràng hơn về Địa lý - Lịch sử nước ta từ xưa đến nay. Đó là một đóng góp quan trọng vào môn/ khoa Địa lý học - Lịch sử Việt Nam.

Thông qua các tác phẩm Địa lý - Lịch sử Việt Nam tiêu biểu đã hiện lên diện mạo của môn/ khoa Địa lý học - Lịch sử có thể đã ra đời từ thế kỷ XIV - XV. Đến thế kỷ XIX thì Địa lý học - Lịch sử Việt Nam bắt đầu phát triển mạnh với nhiều công trình Địa lý - Lịch sử lớn và sau đó nó đã tiếp tục phát triển.

Các nhà Địa lý học - Lịch sử Việt Nam đã nhận ra tính chất trung gian, sự nằm giữa hai môn/ khoa Địa lý học - Lịch sử, nhưng tiếc rằng lại chưa có một sự thống nhất tương đối nào về đối tượng của môn/ khoa Địa lý học - Lịch sử. Do vậy mỗi công trình mỗi vẻ và do đó hạn chế sự phát triển của Địa lý học - Lịch sử Việt Nam. Vậy phải chăng việc xây dựng, xác lập một hệ thống lý thuyết hoàn chỉnh là nhu cầu bức xúc của môn/ khoa Địa lý học - Lịch sử Việt Nam.

Xem Thêm

Nghiên cứu, thử nghiệm và nhân rộng các mô hình kinh tế xanh
Chính phủ yêu cầu thực hiện hiệu quả Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021- 2030, tầm nhìn 2050. Đồng thời nghiên cứu, thử nghiệm và nhân rộng các mô hình kinh tế xanh, đô thị, nông thôn xanh; thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng bền vững...

Tin mới

Thanh Hoá: Tập huấn Bình dân học vụ số cho cán bộ, hội viên
Ngày 22/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa tổ chức Hội nghị tập huấn về Công nghệ số ứng dụng trong sản xuất và đời sống (Bình dân học vụ số) cho gần 200 cán bộ, hội viên của các hội thành viên, trung tâm trực thuộc, đơn vị liên kết trong hệ thống Liên hiệp hội.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Tiền Giang: Họp mặt và vinh danh trí thức KH&CN
Ngày 20/5, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Tiền Giang phối hợp Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức họp mặt trí thức KH&CN và vinh danh 2 trí thức được phong hàm Phó Giáo sư, 8 trí thức được công nhận học vị Tiến sĩ.
ĐẨY MẠNH HỢP TÁC VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI NHÂN DÂN TRONG HỆ THỐNG LIÊN HIỆP HỘI VIỆT NAM
Sáng ngày 13/5/2025 tại tỉnh Sóc Trăng, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) đã phối hợp với Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Sóc Trăng tổ chức Hội thảo “Xúc tiến hợp tác và chia sẻ kinh nghiệm hoạt động đối ngoại nhân dân trong hệ thống Liên hiệp hội Việt Nam”.
VUSTA đóng góp cho Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 2013 và Dự thảo Luật KHCN & ĐMST
Dù chỉ sửa đổi một số điều của Hiến pháp năm 2013, đội ngũ trí thức Liên hiệp Hội Việt Nam nhấn mạnh tính cấp thiết và chiều sâu cải cách, từ mô hình chính quyền hai cấp đến quy định cụ thể cấp hành chính, làm rõ vị trí tổ chức chính trị - xã hội...