Thưởng thức chữ Quốc ngữ cổ trong từ điển Việt Bồ La 1651
Ở Rôma ông đã tìm cách cho ấn hành mấy cuốn sách danh tiếng trong đó đặc biệt có ba quyển về tiếng Việt Nam, một Ngữ pháp tiếng Việtviết bằng tiếng Latinh, một cuốn Từ điển Việt Bồ Lavà một cuốn giáo lí La Việt, cuốn Phép giảng tám ngày. Đó là năm 1651, cho tới nay kể là 351 năm, 1651-2002.
Quyển Từ điển Việt Bồ Lađược in lại năm 1991 là một tư liệu vô cùng quí giá, bởi vì cuốn in năm 1651 rất hiếm, hầu như chỉ còn sót lại mấy quyển nằm trong các thư viện danh tiếng ở Pháp cũng như ở Rôma. Nhưng rất đáng tiếc là quyển in lại sau 340 năm này (1651- 1991) có nhiều thiếu sót, vì người ta đã viết lại một số từ cổ, cho nên việc sử dụng sách khoa học là việc phải rất thận trọng và một việc “in lại” cho chính xác theo nguyên bản 1651 không sửa chữa, không sai lầm là một việc khẩn cấp.
Chúng tôi sẽ cống hiến độc giả một một số từ dùng trong cuốn sách và cũng nhân tiện cho biết mấy từ đã “dặm” sai “chữa” lầm.
Trước hết có từ mẫu là mẹ, không viết mẫu nhưng ghi mẫu, không phải ânhưng ghi a, hẳn theo cách phát âm thế kỷ 17: mãu, mẹ: 1. từ mãu: mẹ sinh đẻ; 2. kế mãu: mẹ ghẻ; 3. đích mãu: em mẹ đã nuôi ngày sau; 4. dưỡng mãu: mẹ nuôi, mẹ mày; 5. giã mãu: mẹ đã lấy chồng khác, mà còn nuôi con; 6. thứ mãu: vợ mọn cha; 7. xuất mãu: mẹ còn nuôi con, khi chồng đã trốn đi; 8. nhũ mãu: vú(1). Các số từ 1 đến 8 có trong từ điển.
Ở chữ trộm, ghi là trộm, có hỏi trộm, hỏi kín đáo. Đặc biệt có lạy trộm, cách nói khiêm tốn, quá khiêm tốn như xin được cung kính vái lạy, kín đáo và từ tốn, như thể kính nhi viễn chi. Chúng ta còn giữ câu nói: yêu trộm, nhớ thầm, nhất là trong những áng văn cổ mấy chục năm hay gần một trăm năm về trước.
Có một số từ theo cách phát âm xưa, chúng tôi viết ở đây một vài, như:
- Nhít, không có nhất. Sách Phép giảng(1651) cũng ghi nhít, ngày thứ nhít.
- Nhịt, không có nhật hay nhựt: nhịt, mặt trời; nhịt thực-nhật thực; nhịt, ngày, có chỗ còn ghi nhệt; nhịt bổn, Nhật Bản.
- Chên, chên tay người, chân, chân tay người.
- Chênh, chân thật.
- Có dân, thế nhưng ở từ rối, lại viết làm rối cho dên.
- Nhin, người; nhin sâm, nhin đức, nhin nghĩa, nhin thay, nhin thế, nhin vì sự ấy, nhin danh cha.
- Nhễn, cái nhễn[nhẫn, cái nhẫn]; nhễn trơn, nhễn nhục.
Rồi như đã nói, trong cuốn in lại năm 1991, có một số từ đã được sửa chữa lại, làm sai hết ý nghĩa nguyên thuỷ như:
- Muôn, mười ngàn; muôn muôn vàn vàn“bị” sửa lại trong bản 1991, là “ muôn muôn vân vân”(!).
- Ở từ cỏ, có thành ngữ được ghi lại là cắn cổ lại. Thực ra đây là một câu nói bình dân rất đẹp, rất khiêm tốn, tỏ sự thú nhận tội lỗi và xin tha thứ: cắn cỏ lại(lại = lạy), phát âm thể kỷ 17, tôi quỳ xuống trên đất cỏ mà cắn cỏ lạy tạ. Lời giải nghĩa bằng La ngữ viết rõ rằng: “ cắn cỏ, để tỏ dấu khiêm tốn trước mặt ai, hầu xin ân huệ, dường như tự xưng mình là súc vật”. Vậy là cắn “ cỏ” chứ không phải cắn “ cổ”.
- Ở từ “ uô, chảng có”, từ chảngchứ không phải chẳng, đã được sửa lại và in lại là : “ trò chảng có”. Thực ra không dễ đối với người không chuyên về từ ngữ cổ và nhất là chữ quốc ngữ cổ. Bởi vì trong từ mẫu La ngữ cổ, thế kỷ 17, người ta viết u-chữ con-để ghi uvà v, vì thế chúng ta đọc thấy uôở đây có nghĩa là vô, mà vô có nghĩa là chẳng có, không có, chứ không phải uôlà “ trò”: “trò, chẳng có”. Vậy “ uô” đã được sửa chữa lại và in lại là “ trò”, “ trò chẳng có”. Nếu đọc tiếp các tổ hợp của từ “ uô” này, chúng ta có-chúng tôi viết lại với chữ u: uô, chó, uô hành[vô hành], chớ làm; uô cùng[vô cùng]; uô biên[vô biên], uô lạng[vô lượng], uô số[vô số], uô thỉ[vô thỉ], chảng có trước; uô chung[vô chung], chảng có sau…
- Từ đói, ở chữ gốc mà thôi, cũng đã được viết lại là đôi, sau đó ghi đúng: đói lòng, đói khát, đói rách.
- Từ đòi, ở chữ gốc mà thôi, cũng đã được viết lại là đôi, sau đó ghi đúng: chúa đòi, thày đòi, đòi nợ.
Để kết thúc ở đây, chúng tôi nói tới từ tièn, được tác giả dài dòng cắt nghĩa cách tính tiền và đếm tiền thế kỉ 17. Trước hết tièn, được ghi như thế, echứ không phải tiền với ê. Ở mấy tổ hợp đầu, người cho in lại đã tôn trọng chính tả nguyên thuỷ như một đồng tièn, hai đồng tièn; một tièn; hai tièn;ba tièn; một quan tièn…Thế nhưng sau đó, đã sửa lại và in lại tièn giánlà “tiên gián”, tièn quýlà “tiên quý”, tièn géylà “tiên géy” [tiên giấy], tièn chỉlà “tiên chỉ”, tièn bọplà “tiên bộp”; geo[gieo] tiènlà “geo tiên”, bẻ tiènlà “bẻ tiên” bẻ đữa [đũa] bẻ đồng tiènlà bẻ đồng tiền là bẻ đũa bẻ “đồng tiên”. Tóm lại, tiènđã được chữa lại là “tiên”.
-Cũng vậy, ngay sau đó tièn, nhãn tièn[tiền, nhãn tiền]cũng được viết lại và in lại là “tiên, nhãn tiên”; rồi tién mía, tién cau[tiễn] cũng được in lại là “tiên, tiên mía, tiên cau”.
Rồi tién Chúa, được in lại là tiến Chúa; tiẹn, hà tiẹnthành tiện, hà tiện; tiẹn, đại tiẹnđược sưả lại thành tiện, đại tiện; tiẹn, thợ tiẹnđược ghi lại là tiện, thợ tiện, con tiện. Từ điển thế kỷ 17 này ghi tièn, tién, tiẹn, chứ không ghi tiền, tiến, tiện.
Vì có khá nhiều sai lầm trong cách viết lại và in lại sai như thế, cho nên đã có mấy người bạn thân của chúng tôi, đề nghị với chúng tôi cho đính chính những sai lầm. Thế nhưng thực ra khó làm được vì công việc khá tỷ mỉ, những từ in lại sai không phải là ít, chúng tôi không có cái mộng là cho in lại một bản khác, không sửa chữa, không tự tiện dặm lại. Các di tích cổ phải được các nhà khảo cổ chuyên nghiệp thực hiện, chứ không thể trao cho bất cứ ai tự tiện làm được.
Từ điển 1651 là một tư liệu về chữ quốc ngữ cổ, phải được giữ gìn và học hỏi. Đã trôi đi 350 nay, chứ không ít. Tiếng nói của người Việt Nam ở cả hai miền đất nước thế kỷ 17 đã được một phần ghi lại, xin trân trọng học hỏi và gìn giữ.
_____________
(1) Ở một vài từ cắt nghĩa, chúng tôi không theo nguyên bản, để dễ đọc.
Nguồn Xưa và Nay, số 116, tháng 5-2002.