Thuốc thú y từ nguồn thảo dược tự nhiên
- Việc mở rộng ngành chăn nuôi ở vùng nhiệt đới.
- Việc đưa những giống cao cấp từ châu Âu sang.
- Sự lai giống giữa các giống cao cấp ở châu Âu với giống địa phương.
- Việc khoanh vùng các đồng cỏ thành những nơi chăn nuôi.
Các sự kiện trên đã làm cho hiệu lực của thuốc giảm đi đối với một số dịch bệnh và vật ký sinh, gây ra nhiều tổn thất trong chăn nuôi.
Để tránh những nguy hại trên, các nước tiên tiến đã đưa các loại thuốc kháng ký sinh (côn trùng gây bệnh và các vật trung gian gây bệnh) nhằm giảm bớt các dịch bệnh cho thú nuôi. Tuy nhiên các chiến dịch diệt trừ tận gốc các vật ngoại ký sinh này đã không đạt được kết quả như mong muốn vì các điều sau:
- Vật ngoại ký sinh đã phát triển khả năng đề kháng đối với các loại thuốc tổng hợp được sử dụng. Hiện tượng này cũng giống như việc dùng thuốc của con người. Một thí dụ đặc trưng là thuốc trị bệnh sốt rét.
- Các nông dân không được chỉ dẫn kỹ về cách dùng thuốc tổng hợp. Việc này đem lại nhiều hậu quả có hại cho sức khoẻ con người như: hít thở phải bụi thuốc, chất bã toxic còn vướng lại trên các vật được xử lý.
- Người ta đã nghiên cứu, thí nghiệm với một khoản tiền khá lớn để chế tạo ra các loại thuốc tổng hợp. Việc này đã vô tình tạo ra những ảnh hưởng xấu, có hại cho môi trường sinh thái, trước mắt là tại những nơi dùng thuốc.
- Ngoài ra việc dùng thuốc tổng hợp đối với các nông dân vùng xa và nghèo thì các loại thuốc này không có sẵn khi cần lại đắt tiền.
Để tránh những điểm thiếu sót nêu trên, việc dùng các nguồn thuốc theo tập quán đã có lâu nay, các loại thuốc thảo mộc có trong thiên nhiên ở ngay tại địa phương là hợp lý. Nhưng điều cần thiết là chúng ta phải đồng thời lưu ý đến việc chăm sóc thú nuôi, giữ vệ sinh chuồng trại, tránh mọi tình huống thuận lợi đối với vật ký sinh, có thể làm cho chúng dễ phát triển... Chúng ta cũng không nên lãng quên việc lợi dụng các "kẻ thù" trong thiên nhiên của các vật ký sinh như chim, thú ăn thịt, vi sinh vật, nấm và nên tạo cho chúng tham gia vào công tác phòng trừ dịch bệnh.
Có trên 3000 loại thực vật chứa chất kháng sinh trên thế giới được người ta biết đến. Hàng trăm loại đã được đưa vào danh mục thuốc thiên nhiên dùng để chống lại các vật ngoại và nội ký sinh. Một số loại thuốc thảo mộc thiên nhiên này đã mang lại hiệu quả cao trong việc chữa bệnh và chữa lành các vết thương ở thú vật. Ngoài tác dụng chữa trị, các loại thảo mộc này còn mang lại các lợi ích khác như cho trái, gỗ, củi, dùng làm thuốc nhuộm, làm sợi, cỏ khô làm thức ăn cho gia súc... Người ta còn có thể lợi dụng việc phát triển trồng các loại cây này nhằm tránh bớt sự rửa trôi xói mòn đất, giúp việc cố định đạm, làm phân xanh. Nói chung, thuốc thảo mộc thiên nhiên dùng để phòng trừ sâu bệnh vừa rẻ tiền, vừa dễ sử dụng lại đạt kết quả tốt và còn mang lại lợi ích khác nữa. Các loại cây thuốc dùng cho mục đích này thường có những đặc điểm như sau:
- Mọc dại, mọc ở nhiều nơi với số lượng lớn.
- Thường phải là cây đa niên để sẵn có dùng suốt năm này qua năm khác.
- Có yêu cầu về chất lượng đất thấp.
- Có chứa lượng chất kháng sinh cao, đặc biệt ở lá, cành hoặc toàn phần (ở các loài cỏ).
- Có thể dự trữ trong thời gian dài mà không mất đi phẩm chất kháng sinh của nó.
GIỚI THIỆU LOẠI CÂY THUỐC CHỐNG VE
Đậu thuốc cá (Tephrosia vogelii Hook.f): là một trong những thực vật có thể trích lấy hoạt chất dùng để trừ ve và những bệnh do ve gây ra (bệnh thường gây nhiều thiệt hại đáng kể trong các vùng nhiệt đới).
Ở loại cây này, chất hoạt tính chống lại côn trùng chỉ có ở trong lá. Việc bảo quản lá khô lâu dài cũng không làm giảm bớt chất toxic có trong lá. Theo các báo cáo ghi nhận được, người ta thường dùng lá của cây cao 3m trở lại. Cứ một lít lá được nghiền còn tươi cộng với một lít nước sạch, để một lúc sau đem lọc. Chất nước gạn lấy được sẽ dùng như một loại thuốc diệt trừ ve đặc biệt ở gia súc. Người ta thường chải thuốc lên thân các con thú bị mắc bệnh (nhất là ở những chỗ bị nhiều).
Cây Tephrosia vogeliikhông phải gốc ở Đông Phi nhưng được trồng nhiều ở khắp châu Phi và cả ở Ấn Độ. Ở Nam Phi và Ấn Độ cây này thường được trồng để làm cây chắn gió cho các đồn điền cà phê. Ở Assam , cây còn được trồng làm phân xanh cho các vùng trồng chè. Ngoài ra, còn một loại khác của Tephrosiatrồng ở Bắc Mỹ (Tephrosia leiocarpa A.Grey)rễ của nó còn có tác dụng trong việc phòng trừ bọ chét, chấy rận, ve cho các gia súc.
Nguyễn Thụy Hoàng lược dịch
(Gate, 3, 1991)
Nguồn: Thông tin khoa học, công nghệ Lâm Đồng, số 3.1993








