Tại sao Ấn Độ lại thờ “cái ấy”?
Rất nhiều tư tưởng của Ấn Độ giáo bắt nguồn từ những bài tụng ca các thần linh từ rất sớm. Sau khi kinh Vệ Đà (Véda) được dịch thành tiếng Phạn thì nó đã trở thành của quí trong văn hoá Ấn Độ và cũng là một trong những thư tịch cổ nhất của Thế giới. Vệ Đà (Véda) có nghĩa là Tri thức. Trong các vấn đề thiên nhiên vũ trụ, câu hỏi nghi vấn mà họ hay nêu lên nhất là: Cái gì đã sinh ra và phát triển muôn loài? Cái gì thai nghén vô cùng như vậy?
Trong sự tìm tòi hăng hái và chất phác như thế, họ gặp ngay cái nguồn gốc thân thiết nhất của chính sinh mạng họ. Đó là tình dục trong tình yêu trai gái, mà họ gọi là Kama.
Nó chính là hơi ấm, là ánh sáng, là khát vọng của thân thể sống tự sinh ra, tự phát triển. Do tình dục mà mới dần dần phát triển ra vũ trụ với muôn vài cán có, mới có thể thai ghén ra những hi vọng vô cùng vô tận.
Trong “Bài ca sáng tạo”, Rigvéda nghĩa là “Ngợi ca luân lí sáng suốt”, ngừơi xưa đã hát lên những câu như sau:
“Tình dục là hạt giống đầu tiên, là sự đầu thai cho tâm linh”.
Cho nên miếu thần của Ấn Độ giáo, có khi thì thờ tượng điêu khắc của thần thánh, có khi chỉ thờ cái dương vật của thần Nam, và cái “ấy” của thần Nữ. Họ tin rằng tất cả là từ đó mà khởi thuỷ sinh ra.
Nếu đem cái sự thích thú mê cuồng không có cách nào hình dung ra được ấy ở nơi sâu thẳm của xác thịt và linh hồn, cái thứ cảm thụ vừa hỗn độn sâu kín lại vừa sắc nhọn cực đoan đến chót vót tột cùng ấy, mà biểu hiện ra bằng tư thế của hình ảnh xác thịt con người cụ thể trông thấy được, thì nếu không đồng thời biểu hiện nó cùng với sự mẫn cảm nhạy bén của nghệ thuật và lòng thành kính tôn giáo, chắc e rằng không có cách nào biểu hiện nổi.
Vì sao các nghệ nhân của vương triều Chandellas lại yêu đến say mê chủ đề này? Đời sau có rất nhiều phỏng đoán và cách nói khác nhau.
Có người nói trên tường của miếu thần chạm trổ những bức tượng điêu khắc hình nam nữ đang giao hoan là nhằm để xua đuổi tà ma, đồng thời có thể bảo vệ cho miếu thần khỏi bị sét đánh hoặc sự xâm nhập tiến công của các tai nạn khác. Có người nói, trong vương triều Chandellas do dân chúng dối lòng, sùng tín Phật giáo càng ngày càng nhiều. Rất nhiều người không chịu lấy vợ lấy chồng sinh con đẻ cái mà đều sớm lánh vào cửa Phật làm sư, làm cho số lượng nhân khẩu giảm nhanh. Các vị quân vương đành phải khổ công xuống lời từ tâm khuyến cáo: Nên biết rằng các bậc thần linh cũng tất yếu phải kết hôn với các nữ thần để thành vợ thành chồng, để được hưởng thụ cái sướng khoái của vợ chồng, mà mục đích cuối cùng của sự khoái lạc này là để kéo dài cho dòng dõi đời sau. Cho nên những bức tượng người mẹ ôm con cũng không ngừng xuất hiện lặp đi lặp lại. Đề tài “tình yêu người mẹ” cũng là một trọng điểm khác của miếu thần Khajuraho. lại có người nói, trong tư tưởng cổ xưa nhất, đã coi sự tiếp xúc xác thịt, có khi cũng là một loại phương pháp và nghi thức để dò tìm và giao hội với thần linh.
Sách Chandogya Upanishad thì hình dung ra như thế này: Khi chàng ôm nàng vào trong lòng với tình yêu sâu thẳm, thì người con trai sẽ quên hết toàn bộ thế giới. Tất cả thân xác của anh ta đều không còn tồn tại, mà cũng như thế, khi sự khớp vào nhau hoà hợp với cái toàn trí toàn năng không cái gì không làm nổi ấy, thì chúng ta sẽ tiến được vào cái giới hạn hoàn toàn quên được mình (vong ngã).
Nếu quan sát một cách tỉ mỉ, trên khuôn mặt của mấy cặp đang làm động tác yêu, chúng ta đều có thể nhìn thấy vể thoả mãn mê li đang được hưởng, cứ loé lên sáng như chớp vậy.
Thật là tài tình, tài năng biết chừng nào, trên nham thạch rắn chắc mà lại lâu dài như vậy, đã bắt chớp được cái thần tình lướt qua nhanh nhất, ngắn ngủi nhất của con người nơi trần thế ấy!
Những bức tượng điêu khắc cái “số kia” của phụ nữ trên các bức tường là tượng trưng cho linh hồn của nhân loại, đang đợi chờ, rên lên, chuẩn bị để được triều kiến Thánh thần. Các cô thường hiện ra với dáng vẻ tư thế ưỡn ẽo, rã rời hoặc chăm chú soi gương, hoặc nâng nhẹ hai bầu vú, từ sự tiếp xúc với cơ thể của chính mình để thử hô hào thức tỉnh những linh hồn đang ngủ mê chìm đắm.
Thế còn các đôi bạn tình đang ôm chặt xoắn vặn vào nhau kia thì tượng trưng cho sự “Tái tạo lại chính mình” trong tôn giáo Ấn Độ. Đó là sự tìm lại “Cái tôi mới” của chính mình được hài hoà mà hoàn chỉnh hơn.
Cho đến giữa thế kỉ 19, vào năm 1838, Khajuraho mới được thượng uý Pitơ người Anh nhân đi ăn mà phát hiện ra. Sau khi tin tức được tung lên, các học giả mới đến quan sát và ghi chép. Trong chốn rừng sâu rậm rạp ấy, chỉ còn sót lại có 22 toà miếu thần đã trải tang thương.
Bây giờ Khajuraho đã chia thành 3 quần thể miếu, thuộc 3 khu Đông, Tây và Nam, có một sân bay nhỏ và một số nhà nghỉ yên tĩnh, trang nhã. Các cửa hàng trên phố và quán cà phê hơi có chút qui mô. Cư dân cũng dần dần tăng lên đạt được 5.000 người. Toàn cảnh Khajuraho cũng giống như các thắng cảnh tham quan khác của Ấn Độ, không có gì khác biệt hẳn.
Nhưng mỗi người tham quan khi đứng trước miếu thần, nhìn cảnh quan 5.000 năm qua được bọc kín trong chốn rừng sâu rậm rạp, vẫn nảy sinh bao niềm trân trọng mến yêu.
Trong rất nhiều hình ảnh của Khajuraho, người hướng dẫn du lịch thường dừng lại trước một bức tượng đàn bà. Đó là hình người đàn bà khoả thân một nửa, đang cởi Sali của mình. Phần thân của bức tượng dường như đang nóng ấm, da thịt nóng hổi sáng trơn, từ bụng dưới trở xuống đều để hở ra. Trên đùi bên trái của cô có một vật rất kì quái. Người hướng dẫn dùng gương phản chiếu ánh nắng soi chỉ vào đó mà nói:
- Các bạn xem, con bò cạp đang bò lên đến đùi rồi. Đó là tượng trưng cho sự kích tình, biểu thị rằng người đàn bà này đang có khát vọng!
Thật là sức tưởng tượng phong phú phi thường! Dùng hình ảnh con bọ cạp để biểu hiện cho sự kích động tình dục trong thân thể đàn bà đang đợi chờ, mấp mé, run rẩy và rạo rực, là nói nỗi lòng người đàn bà đang run lên. Sau một ngàn năm, một cái chi tiết tỉ mẩm tí ti ấy đã làm cho bức tượng bộc trực, điềm nhiên. Dường như tôi có thể nghe thấy tiếng reo lên đòi hỏi trong người đàn bà ấy:
- Ôi! Đến rồi! Con bò cạp của hạnh phúc mĩ lệ đã đến rồi!
Đó mới chính là Khajuraho đích thực!








